Khi sương sớm còn vương trên những tán cọ, mái nhà sàn ẩn hiện bên triền núi, tiếng Then dìu dặt đã vang vọng giữa không gian tĩnh lặng của núi rừng.

Ở xã Thượng Lâm (huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang), những giai điệu mượt mà như kể câu chuyện về núi rừng, tình người và khát vọng vươn lên của đồng bào Tày. Trong không gian ấy, bản sắc văn hóa truyền thống được nâng niu, gìn giữ, lan tỏa, thổi hồn vào phát triển du lịch cộng đồng - hướng đi bền vững cho vùng đất Tuyên Quang.
Hồn cốt văn hóa truyền thống của dân tộc Tày
Người Tày là một trong những dân tộc đông người tại tỉnh Tuyên Quang, chiếm gần 1/4 dân số toàn tỉnh. Đồng bào cư trú chủ yếu dọc các thung lũng, ven suối, những nơi đất đai màu mỡ, thuận lợi cho trồng trọt và chăn nuôi. Đời sống gắn bó với thiên nhiên hun đúc nên một kho tàng văn hóa phong phú, từ lễ hội, tín ngưỡng đến dân ca, dân vũ.
Trong kho tàng ấy, tiếng Then và điệu múa bát được xem là “linh hồn” của văn hóa Tày. Nếu tiếng Then da diết, trầm bổng như lời tâm sự gửi gắm bao ước vọng thì điệu múa bát lại gắn với nghề trồng bông, dệt vải - biểu tượng của sự khéo léo, chăm chỉ và khát vọng no đủ. Ở Thượng Lâm, các câu lạc bộ hát Then, đàn Tính đã trở thành “điểm hẹn văn hóa”, nơi những nghệ nhân và lớp trẻ cùng nhau bảo tồn, truyền dạy. Vào ngày lễ hội, du khách sẽ được đắm mình trong sắc màu thổ cẩm, ngất ngây cùng lời Then, điệu múa và hơi men rượu ngô nồng nàn.
Bản sắc văn hóa còn được thể hiện đậm nét trong trang phục truyền thống. Phụ nữ Tày nổi bật với áo năm thân màu chàm đậm, thắt lưng hồng hoặc đỏ, quần lá tọa, trên đầu đội khăn vuông đen. Vẻ mộc mạc, kín đáo nhưng tinh tế trong từng đường kim, mũi chỉ thể hiện sự khéo léo, cần cù và thẩm mỹ đặc trưng của đồng bào. Trang phục không chỉ để mặc trong sinh hoạt hàng ngày mà còn gắn liền với nghi lễ, hội hè, là niềm tự hào văn hóa được gìn giữ từ bao đời nay.
Bàn tay khéo léo của phụ nữ Tày còn gửi gắm vào những sản vật đặc trưng. Thịt lợn đen gác bếp, cá suối nướng, xôi ngũ sắc, rượu men lá cùng khăn thổ cẩm, túi dệt tay, vòng tay, móc khóa… trở thành món quà ý nghĩa, mang theo hương vị núi rừng đến với du khách. Những sản phẩm này không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn góp phần lan tỏa câu chuyện văn hóa đặc sắc của người Tày.

Biểu diễn đàn tính phục vụ du khách tại homestay Tài Ngào, thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, tỉnh Tuyên Quang.
Bừng sáng bản làng du lịch cộng đồng
Được thiên nhiên ưu ái ban tặng cảnh quan núi rừng hùng vĩ, lòng hồ thủy điện Tuyên Quang trong xanh và những dãy núi đá vôi kỳ vĩ, xã Thượng Lâm trở thành điểm đến đầy sức hút. Sau sáp nhập, vùng đất này càng nổi bật nhờ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp hoang sơ và bản sắc văn hóa độc đáo. Những ai từng ghé thăm nơi đây đều bị cuốn hút bởi không gian sơn thủy hữu tình, nơi mây trắng phủ mờ trên những ngọn núi, tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy lãng mạn, gợi cảm giác yên bình mà khó nơi nào sánh kịp.
Từ khi địa phương triển khai mô hình du lịch cộng đồng, những nếp nhà sàn mộc mạc đã trở thành điểm dừng chân lý tưởng cho du khách khám phá. Hiện, toàn xã Thượng Lâm có 31 homestay, ở đó phụ nữ Tày là lực lượng nòng cốt đảm nhận đón khách, chế biến món ăn truyền thống, biểu diễn văn nghệ dân gian và hướng dẫn trải nghiệm.
Anh Hoàng Văn Minh, Giám đốc Hợp tác xã Thanh niên Thượng Lâm, chủ Homestay Tài Ngào, thôn Nà Tông chia sẻ: “Homestay Tài Ngào đi vào hoạt động hơn 3 năm qua với 2 nhà sàn có thể đón tối đa 65 khách, tạo việc làm thường xuyên cho 8 - 10 lao động trực tiếp. Khách đến đây sẽ được trải nghiệm giã bánh giầy, giao lưu văn hóa văn nghệ, đốt lửa trại, nhảy sạp, nghe hát Then, Páo Dung, xem múa khèn Mông, múa Pà Thẻn, đạp xe tham quan bản làng hay cùng chủ nhà nấu các món ăn truyền thống. Linh hồn của du lịch cộng đồng chính là từ cuộc sống bình dị, chan hòa của người dân. Chúng tôi, những người trẻ, đang nỗ lực tạo ra giá trị mới trên nền tảng văn hóa truyền thống, để từng bước hiện thực hóa ước mơ biến nông thôn thành nơi đáng sống, là nơi để quay về”.

Biểu diễn đàn tính cùng lời hát then phục vụ du khách tại homestay Tài Ngào, thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, tỉnh Tuyên Quang.
Anh Nguyễn Thế Cường, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), bày tỏ cảm xúc sau chuyến đi: “Tôi ấn tượng sâu sắc với không gian yên bình và sự thân thiện của người dân. Những đêm giao lưu văn nghệ, tiếng hát Then bên ánh lửa bập bùng khiến tôi như được sống trong một câu chuyện cổ tích. Đây chắc chắn là nơi tôi sẽ quay lại, không chỉ để nghỉ ngơi mà còn để cảm nhận những giá trị văn hóa nguyên sơ, mộc mạc”.
Không dừng lại ở việc đón khách, các chị em của xã Thượng Lâm còn phục dựng và quảng bá nghề thủ công truyền thống, biến chúng thành sản phẩm du lịch đặc sắc. Nhiều gia đình đã có thu nhập đều đặn từ 150 - 200 triệu đồng mỗi năm nhờ kết hợp làm du lịch và kinh doanh sản phẩm truyền thống.
Ông Nguyễn Văn Hòa, Bí thư Đảng ủy xã Thượng Lâm nhấn mạnh: Phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, vừa tạo sinh kế bền vững, vừa góp phần xây dựng hình ảnh địa phương. Địa phương đặt mục tiêu xây dựng thôn Nà Tông trở thành Làng văn hóa tiêu biểu của dân tộc Tày, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ để đón trên 200.000 lượt khách du lịch mỗi năm.
Chủ tịch UBND xã Thượng Lâm Ma Công Khâm cũng nêu rõ, chính quyền xã cam kết đồng hành cùng người dân trong đào tạo kỹ năng, quảng bá sản phẩm, kêu gọi đầu tư hạ tầng. Xã mong muốn mỗi người dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là hướng dẫn viên giới thiệu văn hóa quê hương, để Thượng Lâm thực sự là điểm đến thân thiện và khác biệt.

Biểu diễn múa truyền thống dân tộc Tày phục vụ du khách.
Sự thay đổi tư duy, cách làm kinh tế của phụ nữ Tày cùng sự năng động của thế hệ trẻ đã và đang mang đến diện mạo mới cho các bản làng nơi đây. Họ vừa là người giữ gìn văn hóa, vừa là hạt nhân phát triển du lịch bền vững, góp phần quảng bá hình ảnh Tuyên Quang giàu bản sắc ra khắp nơi.
Từ những điệu Then da diết, mái nhà sàn ấm áp, đến những sản vật đậm hồn núi rừng, người Tày ở Tuyên Quang hôm nay đang khéo léo kết hợp bảo tồn với phát triển. Khi hai vùng đất đã hòa quyện trong một thể thống nhất, bản sắc Tày càng trở thành sợi dây gắn kết, tạo nên sức mạnh cộng đồng để phát triển du lịch, nâng tầm thương hiệu vùng đất giàu truyền thống và tiềm năng./.
Tên gọi khác: Thổ.
Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.
Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.
Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

Ở: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.
Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.
Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.
Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.
Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.
Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.
Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.
Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Lịch: Người Tày theo âm lịch.
Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.
Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.
Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...
Theo cema.gov.vn
