Điện Biên là vùng đất hội tụ 19 dân tộc anh em cùng chung sống, tạo nên bức tranh văn hóa rực rỡ sắc màu, từ trang phục truyền thống đến phong tục, lễ hội đặc sắc. Nhiều giá trị văn hóa được tôn vinh là di sản của quốc gia, nhân loại. Người thổi niềm đam mê, là “linh hồn sống” của các di sản ấy chính là những nghệ nhân, họ thắp lên ngọn lửa đam mê, gìn giữ và truyền dạy tinh hoa văn hóa, để mạch nguồn di sản mãi lan tỏa, trường tồn cùng thời gian.

Những "linh hồn sống" bảo tồn, phát huy giá trị di sản
Ông Vàng Văn Thức ở bản Na Nát, phường Mường Lay là người có công lớn trong bảo tồn lễ Kin pang then (lễ tạ ơn các thần linh, thầy của thầy then, thầy then trần gian, tổ tiên) của dân tộc Thái trắng. Hơn 30 năm gắn bó với hát Then, ông được xem là “người giữ hồn” dân tộc Thái ở Mường Lay và được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú năm 2015. Không chỉ truyền dạy trong cộng đồng người Thái, ông còn hướng dẫn cả những học viên người Kinh có niềm đam mê với văn hóa truyền thống.
Nghệ nhân Vàng Văn Thức cho biết, để những làn điệu Then cổ không bị mai một và mất đi, ông đã truyền dạy lại cho con cháu trong gia đình cũng như những người yêu thích Then ở khắp các vùng miền trong cả nước với mong muốn góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc. Ông cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động liên quan đến lễ Kin pang then tại địa bàn và những nơi có người Thái sinh sống ở trong và ngoài tỉnh.

Nghệ nhân Vàng Văn Thức ở phường Na Lay, thị xã Mường Lay trình diễn nghệ thuật hát Then của người Thái.
Tương tự, Nghệ nhân Ưu tú Lường Thị Đại (xã Thanh Yên) dành nhiều năm sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Thái, đồng thời phối hợp tổ chức hàng chục lớp truyền dạy chữ Thái cổ, góp phần gìn giữ ngôn ngữ, chữ viết và các giá trị văn hóa dân tộc. Sau khi được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú năm 2015, bà vẫn tiếp tục với đam mê mãnh liệt là tìm hiểu truyền thống văn hóa Thái. Ngoài sưu tầm văn hóa dân gian, bà còn phối hợp với những người am hiểu văn hóa dân tộc Thái, chữ Thái cổ, tìm nguồn tài trợ từ các nguồn khác nhau để tổ chức hàng chục lớp truyền dạy tiếng Thái cổ, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc. Ghi nhận những đóng góp của nghệ nhân với văn hóa dân tộc, Nhà nước đã trao tặng bà Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Ở xã Sính Phình, Nghệ nhân Ưu tú Sình A Tâu đã dành nửa đời người để gìn giữ tiếng khèn của đồng bào Mông. Những ngày nông nhàn, ông truyền dạy thanh niên thổi và múa khèn - nhạc cụ gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người Mông, từ lễ hội mùa xuân đến cưới hỏi, tiễn đưa người đã khuất. Âm điệu của khèn mang theo câu chuyện, nỗi niềm và khát vọng của con người, gửi gắm vào thiên nhiên đại ngàn. Mỗi ngành Mông lại có cách thổi, nhịp điệu và lối trình diễn khác nhau, phản ánh đặc trưng văn hóa riêng.
Hiện nay, nhiều nghệ nhân cũng là thành viên tích cực trong việc vận động, sáng lập Câu lạc bộ Bảo tồn văn hóa văn nghệ dân gian dân tộc Thái tỉnh Điện Biên với mục đích nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, văn nghệ dân gian dân tộc Thái tỉnh Điện Biên. Ngày mới thành lập Câu lạc bộ có 47 hội viên, đến nay Câu lạc bộ đã thu hút hàng trăm hội viên tham gia.
Tỉnh Điện Biên có 41 Nghệ nhân ưu tú (10 nghệ nhân đã qua đời) cư trú tại các xã, phường trên địa bàn tỉnh, trong đó dân tộc Thái có 15 nghệ nhân, dân tộc Mông có 7 nghệ nhân, còn lại là các dân tộc khác. Theo loại hình di sản mà các nghệ nhân nắm giữ, các Nghệ nhân ưu tú chủ yếu nắm giữ ở loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian với 22 nghệ nhân; ngoài ra là các loại hình tập quán xã hội, tín ngưỡng; tiếng nói, chữ viết; tri thức dân gian; lễ hội.
Phát huy vai trò giữ và truyền lửa của các nghệ nhân

Các thành viên Câu lạc bộ Văn nghệ người cao tuổi phường Na Lay, thị xã Mường Lay trình diễn các điệu múa cổ.
Theo ông Trần Hải Hà, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên, các nghệ nhân đã phát huy rất tốt vai trò trong cộng đồng, đặc biệt trong việc truyền dạy, lan tỏa hiểu biết vốn tri thức dân gian quý báu đến với cộng đồng,trong đó có thế hệ trẻ. Với khả năng thực hành các nghề truyền thống, nghệ thuật diễn xướng, tập quán xã hội, tín ngưỡng... các nghệ nhân ở các thôn, bản trên địa bàn tỉnh không ngừng nỗ lực gìn giữ, cống hiến, sáng tạo và trao truyền lại cho lớp cháu con. Họ tích cực tham gia các hội thi, hội diễn do ngành văn hóa các địa phương tổ chức.
Tuy nhiên, hiện nay, số nghệ nhân giàu kinh nghiệm, giỏi nghề truyền thống, giỏi nghệ thuật diễn xướng, nắm giữ những tri thức quý của cha ông ngày càng lớn tuổi và dần ít đi, trong khi lớp trẻ không mấy mặn mà, hoặc chưa đủ sức để kế tục, để giữ ngọn lửa văn hóa của dân tộc. Vì vậy, trong nhiều giải pháp mà tỉnh Điện Biên triển khai để gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, giải pháp quan trọng nhất là quan tâm, chăm sóc, phát huy vai trò giữ lửa và truyền lửa của các nghệ nhân trong cộng đồng.
Ông Trần Hải Hà cho biết, tỉnh Điện Biên đã thực hiện nhiều chính sách ưu tiên đối với các nghệ nhân ưu tú như: Hỗ trợ thành lập và tổ chức hoạt động đối với các câu lạc bộ, nhóm thực hành di sản. Hiện nay tỉnh đã thành lập Hội văn hóa dân tộc Thái tỉnh Điện Biên. Các nghệ nhân có thu nhập thấp được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng, hỗ trợ bảo hiểm y tế, hỗ trợ mai táng phí khi qua đời; hỗ trợ nghệ nhân ưu tú tham gia các hoạt động lưu truyền, phổ biến di sản văn hóa phi vật thể và đào tạo, bồi dưỡng, truyền dạy những người kế cận; hỗ trợ kinh phí cho nghệ nhân, người thực hành tham gia hướng dẫn, tập huấn, truyền dạy cho cộng đồng.
Đặc biệt, trong những năm qua, tỉnh đã thực hiện Dự án 6 “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngành văn hóa tỉnh Điện Biên đã tổ chức các lớp tập huấn và truyền dạy văn hóa phi vật thể như truyền dạy nghề làm trang phục dân tộc Kháng, Xinh Mun, Khơ Mú, Dao, Mông; chế tác khèn dân tộc Mông, truyền dạy viết chữ Dao, nghề đan lát dân tộc Si La, bảo tồn môn thể thao truyền thống các dân tộc... Tỉnh cũng tổ chức bảo tồn lễ hội truyền thống tiêu biểu các dân tộc thiểu số như: Lễ Tra hạt của dân tộc Khơ Mú; Lễ cúng tổ tiên của dân tộc Thái, ngành Thái trắng; Lễ mừng cơm mới của dân tộc Cống; lễ Cúng thần rừng và lễ Cúng lá lúa của dân tộc Kháng...
Cuộc sống càng hiện đại, nhiều di sản của đồng bào các dân tộc thiểu số lại có xu hướng trở nên mờ nhạt, giới trẻ dần đánh mất bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Trước những thách thức của quá trình phát triển tất yếu, nghệ nhân chính là những người lưu giữ lại giá trị văn hóa, những bản sắc riêng của cộng đồng các dân tộc. Họ là những người nắm giữ, truyền dạy kiến thức, kỹ năng và giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ, đồng thời góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa và thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng./.
Tên tự gọi: Tay hoặc Thay
Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Theo cema.gov.vn
