An Giang nâng cao hiệu quả việc dạy tiếng dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục

An Giang nâng cao hiệu quả việc dạy tiếng dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục

Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer, Chăm sinh sống, thời gian qua An Giang đã tập trung triển khai có hiệu quả việc dạy, học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục. Qua đó, đảm bảo tốt nhất nhu cầu học tiếng dân tộc thiểu số cho học sinh vùng dân tộc.

Dạy và học đi vào nền nếp

Tỉnh An Giang có gần 28.500 hộ dân tộc thiểu số Khmer, Chăm, Hoa, với khoảng 112.000 người, chiếm 5,26% tổng dân số toàn tỉnh. Đồng bào dân tộc Khmer chiếm 3,98% tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung nhiều nhất ở 2 huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên. Dân tộc Chăm chiếm 0,59% so với tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu. Riêng dân tộc Hoa, An Giang có gần 5.250 người, sống chủ yếu ở khu vực thành thị. Ở những vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, người Khmer sử dụng đan xen cùng lúc tiếng Việt và tiếng Khmer và người chăm cũng sử dụng đan xen tiếng Việt và tiếng Chăm.

Ông Trần Tuấn Khanh, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang cho biết: Sau năm 1975, tiếng Khmer, tiếng Chăm được ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh triển khai dạy, học ở các trường tiểu học tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, nơi có đông đồng bào dân tộc Khmer, Chăm sinh sống.

“Năm học 1999-2010, khi có Nghị định số 82/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định “về việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên” (viết tắt Nghị định 82), việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số tại An Giang đã đi vào nền nếp. Từ đó, điều kiện dạy và học tiếng dân tộc, cũng như chương trình, sách giáo khoa, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, cơ sở vật chất, chế độ chính sách cho người dạy và người học gặp rất nhiều thuận lợi”, ông Khanh thông tin.

Sau khi có Nghị định 82, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang đã tổ chức dạy và học tiếng Khmer tại 3 trường Phổ thông Dân tộc nội trú ở Châu Đốc, Tri Tôn và huyện Tịnh Biên. Tỉnh cũng tổ chức dạy học tiếng Khmer tại 7 trường tiểu học thuộc các xã: Châu Lăng, Lê Trì, Núi Tô, An Tức và xã Ô Lâm (huyện Tri Tôn); tại huyện Tịnh Biên tổ chức dạy ở 9 trường tiểu học, trung học cơ sở tại các xã: Văn Giáo, An Cư, Tân Lợi và Vĩnh Trung…

Từ năm học 2015-2016, được sự giúp đỡ của tổ chức UNICEF Việt Nam, An Giang cũng đã giảng dạy thí điểm các lớp song ngữ dựa trên cơ sở tiếng mẹ đẻ Khmer tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Ngoài ra, tại huyện Tri Tôn còn triển khai dạy tiếng Khmer tại 19 điểm chùa vào dịp hè, tại các xã Châu Lăng, Lương Phi, Lê Trì, Núi Tô, Cô Tô, An Tức và xã Ô Lâm. Hiện ngành Giáo dục và Đào tạo An Giang thực hiện giảng dạy tiếng Khmer ba trình độ A, B, C từ lớp 3 đến lớp 5 với thời lượng 2 tiết/tuần; đối với cấp trung học cơ sở trở lên dạy chương trình 7 trình độ của Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn.

Đối với dạy tiếng Chăm, hiện toàn tỉnh có 5 lớp, với 114 học sinh đang theo học. Từ năm học 2019-2020, An Giang đã đưa giáo trình giảng dạy tiếng Chăm do Tiến sĩ Phú Văn Hẳn chủ biên, được Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang thẩm định. Song song đó, tiếng Chăm còn được các giáo cả dạy cho con em người Chăm tại các thánh đường ở các xã Đa Phước, huyện An Phú; xã Châu Phong, thị xã Tân Châu; xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú. Riêng tiếng Hoa được dạy học chủ yếu ở các cơ sở tư nhân tại thành phố Long Xuyên, Châu Đốc và thị xã Tân Châu…

Đảm bảo cơ sở vật chất và chính sách cho giáo viên

Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang Trần Tuấn Khanh khẳng định: Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp ngày càng khang trang, đáp ứng nhu cầu dạy và học của giáo viên, học sinh vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Việc triển khai dạy học tiếng Khmer, Chăm trên địa bàn tỉnh thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến con em đồng bào dân tộc, tạo sự phấn khởi trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

“Từ khi có Nghị định 82, phòng học, bàn ghế, sách giáo khoa phục vụ giảng dạy, học tập tiếng dân tộc thiểu số được đảm bảo tốt nhất, nên thu hút đông đảo con em đồng bào dân tộc Khmer, Chăm đến trường. Từ đó, việc dạy, học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã góp phần nâng cao dân trí, giữ gìn bản sắc văn hóa, dân tộc, tạo nguồn nhân lực trong cộng đồng người dân tộc thiểu số An Giang”, ông Khanh nhấn mạnh.

Để nâng cao trình độ giảng dạy cho giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số, thời gian qua ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang cũng cử nhiều lượt giáo viên tham gia các lớp tập huấn do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức; tham gia bồi dưỡng ngắn hạn tại Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Trà Vinh. Riêng tiếng Chăm, do không có nguồn giáo viên nên phải thỉnh giảng các “tri thức địa phương”.

Bên cạnh việc thực hiện tốt chính sách cho người dạy và người học theo Nghị định 82, thời gian qua, giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số tại An Giang còn được hưởng phụ cấp trách nhiệm bằng 0,3 so với mức lương tối thiểu. Riêng giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp 50% mức lương hiện hưởng theo quy định của Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 8/10/2019 của Chính phủ.

Tuy đạt nhiều kết quả nhất định, nhưng bà Trần Thị Ngọc Diễm, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang thừa nhận: Việc thực hiện dạy học tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh hiện gặp một số khó khăn nhất định. Cụ thể, tỉnh chưa mở rộng được quy mô dạy tiếng dân tộc thiểu số ở các trường tiểu học và trung học cơ sở do thiếu giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số, đặc biệt là tiếng Chăm, do tỉnh không có khoa đào tạo để chuẩn hóa đội ngũ giáo viên theo quy định của Nghị định 82.

“Đồ dùng dạy học, trang thiết bị dạy học tuy được đầu tư bài bản, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu dạy và học. Các điểm chùa Khmer, thánh đường Chăm tuy có lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số nhưng lại chưa tham mưu cho tỉnh để được hưởng chế độ chính sách cho người dạy và người học theo quy định”, bà Diễm thông tin.

Theo bà Diễm, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh sẽ kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ sung mức hỗ trợ kinh phí cho nhà sư, giáo cả, giáo viên… cũng như trang bị sách, thiết bị ở các cơ sở tôn giáo có dạy tiếng dân tộc thiểu số trong dịp hè. Bộ cần có chính sách chuẩn hóa giáo viên tiếng dân tộc thiểu số để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội; tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ giáo viên cốt cán dạy tiếng dân tộc thiểu số. Đồng thời, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức kiểm tra công nhận cấp bằng, chứng chỉ tiếng dân tộc thiểu số cho học sinh. An Giang cũng kiến nghị Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 82 để phù hợp với Luật Giáo dục và chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

Thanh Sang

(TTXVN)
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Nghệ An dồn sức khắc phục hậu quả lũ dữ

Nghệ An dồn sức khắc phục hậu quả lũ dữ

Tại khu vực miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An, từ ngày 24/7, mực nước trên sông Lam, Nậm Mộ, Nậm Nơn... giảm mạnh. Tình trạng ngập lụt tại các vùng tâm lũ thuộc các xã Con Cuông, Mường Xén, Tương Dương, Mỹ Lý, Nhôn Mai... đã bớt căng thẳng, nhiều nơi nước đã rút cạn.

Tuyên Quang: 53 xã công bố dịch tả lợn châu Phi

Tuyên Quang: 53 xã công bố dịch tả lợn châu Phi

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang, tính từ ngày 5/7 đến nay, trên địa bàn tỉnh có 53 xã công bố dịch tả lợn châu Phi, tổng số lợn mắc bệnh phải tiêu hủy bắt buộc từ ngày 5/7 đến ngày 25/7 là 9.864 con, tổng khối lượng trên 544,3 tấn.

Hỗ trợ đồng bào các dân tộc vùng biên ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế

Hỗ trợ đồng bào các dân tộc vùng biên ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế

Bên cạnh nhiệm vụ chính trị bảo vệ biên giới, các chiến sĩ Đồn Biên phòng Ia Rvê (tỉnh Đắk Lắk) còn đẩy mạnh thực hiện phương châm “Gần dân, sát dân” và nêu cao đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” để giúp các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, chăm lo đời sống gia đình chính sách, người có công trên địa bàn.

Mưa lớn gây lũ ống, lũ quét, thiệt hại về người và tài sản tại Sơn La

Mưa lớn gây lũ ống, lũ quét, thiệt hại về người và tài sản tại Sơn La

Những ngày qua, trên địa bàn tỉnh Sơn La có mưa lớn kéo dài. Đặc biệt, vào chiều tối và đêm 26 rạng sáng 27/7 đã xuất hiện lũ ống, lũ quét gây thiệt hại về người, tài sản, hoa màu của nhân dân. Tình trạng ngập úng, sạt lở đất, đá xảy tại nhiều địa phương khiến các hộ dân phải di rời khẩn cấp.

Xây dựng thương hiệu nông sản, nâng cấp cho sản phẩm OCOP

Xây dựng thương hiệu nông sản, nâng cấp cho sản phẩm OCOP

Tỉnh Đồng Nai hiện có 439 sản phẩm của 146 chủ thể được công nhận và xếp hạng từ 3 sao trở lên; trong đó,11 sản phẩm được Trung ương công nhận đạt 5 sao. Các sản phẩm OCOP đều có chất lượng cao, tiêu chuẩn kỹ thuật bảo đảm, bao bì sản phẩm bắt mắt.

Lạng Sơn điều chỉnh thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu

Lạng Sơn điều chỉnh thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu

Ngày 26/7, thông tin từ Trung tâm Quản lý cửa khẩu (Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn) cho biết, đơn vị vừa nhận được thư công tác số 71-2025 ngày 25/7/2025 của Chính phủ nhân dân thị Bằng Tường (Quảng Tây, Trung Quốc) thông tin về thời gian thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa tại Đường chuyên dụng vận chuyển hàng hoá Tân Thanh và Lối thông quan Cốc Nam.

Nghệ An: Tình người trong lũ dữ

Nghệ An: Tình người trong lũ dữ

Từ tối 22 đến sáng ngày 23/7, ảnh hưởng của hoàn lưu sau bão số 3, trên địa bàn miền núi, biên giới tỉnh Nghệ An liên tục có mưa to, cùng với nước lũ lên nhanh trên các dòng sông Lam, Nậm Mộ, Nậm Nơn đã gây thiệt hại nghiêm trọng về người, nhà cửa, tài sản của nhân dân.

Đắk Lắk: Xóa nhà tạm, dựng mái ấm cho người có công

Đắk Lắk: Xóa nhà tạm, dựng mái ấm cho người có công

Thực hiện chủ trương “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người có công” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực từng ngày để tri ân sâu sắc những người đã hy sinh, cống hiến cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Đồng Tháp: Đổi tên ấp do trùng, giúp giải quyết thủ tục hành chính thuận lợi

Đồng Tháp: Đổi tên ấp do trùng, giúp giải quyết thủ tục hành chính thuận lợi

Thực hiện Công văn của UBND tỉnh Đồng Tháp về việc hướng dẫn một số nội dung về sắp xếp tổ chức bộ máy và chuẩn bị cho đơn vị hành chính cấp xã mới hoạt động theo Công văn số 4168/BNV-CQĐP ngày 23/6/2025 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn một số nội dung về sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính, xã Mỹ An Hưng, tỉnh Đồng Tháp đã đổi tên các ấp do trùng tên.

Nghệ An: Nỗ lực thông tuyến Quốc lộ 7 đến tâm lũ Tương Dương, Mường Xén

Nghệ An: Nỗ lực thông tuyến Quốc lộ 7 đến tâm lũ Tương Dương, Mường Xén

Từ tối ngày 19/7 đến sáng ngày 23/7, do ảnh hưởng của mưa cường suất lớn, diễn ra trong nhiều giờ liền và lũ lớn trên sông Lam dâng cao vượt mốc lịch sử, tuyến quốc lộ 7 nối địa bàn các xã miền xuôi với các xã biên giới Tương Dương, Mường Xén đi cửa khẩu Nậm Cắn (tỉnh Nghệ An) đã xuất hiện hàng chục điểm ngập lụt, chia cắt giao thông nghiêm trọng trên tuyến quốc lộ trọng yếu, huyết mạch.

Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc lan tỏa tới từng gia đình, khu phố

Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc lan tỏa tới từng gia đình, khu phố

Sáng 25/7, phường Phan Thiết tổ chức Ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Đây là địa phương được Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng và Ban chỉ đạo “Thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” Trung ương chọn tổ chức điểm Ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” năm 2025.

Hơn 100 hộ dân bị cô lập ở bản sát biên giới Cha Nga (Nghệ An) vẫn an toàn sau lũ dữ

Hơn 100 hộ dân bị cô lập ở bản sát biên giới Cha Nga (Nghệ An) vẫn an toàn sau lũ dữ

Ngày 25/7, Thiếu tá Phan Đức Tâm, Chính trị viên Đồn Biên phòng Mỹ Lý (Bộ đội biên phòng Nghệ An) cho biết: Bước đầu, đơn vị đã nắm được thông tin cơ bản về tình hình bản Cha Nga (xã Mỹ Lý) và khẳng định, cho đến thời điểm hiện tại 103 hộ dân là dân tộc Thái của bản này đều an toàn về người trong đợt lũ mạnh hoành hoành nhiều xã trên địa bàn miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An vừa qua.

Tháo gỡ khó khăn, chăm lo sức khỏe tốt nhất cho người dân vùng sâu, vùng xa

Tháo gỡ khó khăn, chăm lo sức khỏe tốt nhất cho người dân vùng sâu, vùng xa

Sáu tháng đầu năm 2025, ngành Y tế tỉnh Long An đã thực hiện nhiều chỉ tiêu tăng so với cùng kỳ năm 2024, chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Trong những tháng còn lại của năm, ngành tập trung thực hiện Đề án thành lập Sở Y tế tỉnh Tây Ninh trên cơ sở hợp nhất Sở Y tế Long An và Sở Y tế Tây Ninh (cũ) nhằm ổn định cơ cấu tổ chức, tháo gỡ khó khăn, tiếp tục chăm lo tốt nhất cho người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Hơn 1.000 căn nhà thuộc nguồn vốn của Bộ Công an được xây dựng ở tỉnh Thái Nguyên

Hơn 1.000 căn nhà thuộc nguồn vốn của Bộ Công an được xây dựng ở tỉnh Thái Nguyên

Chiều 24/7, Bộ Công an phối hợp cùng UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức Lễ khởi công “điểm” thực hiện Đề án “Xây dựng 1.000 căn nhà ở cho nhân dân thực hiện mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên sau sáp nhập tỉnh từ nguồn kinh phí đề nghị Bộ Công an hỗ trợ”.