Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 đã giúp tỉnh Lâm Đồng hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu, giúp đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững. Nhờ đó, hệ thống chính trị cơ sở thêm vững mạnh, khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Đầu tư gần 3.300 tỷ đồng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Theo Sở Dân tộc và Tôn giáo Lâm Đồng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 (theo Quyết định 1719/QĐ-TTg, ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, gọi tắt là Chương trình 1719), tổng kế hoạch vốn giao cho ba tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng, Bình Thuận (cũ, nay là tỉnh Lâm Đồng) gần 3.300 tỷ đồng.
Trên cơ sở ưu tiên phân bổ nguồn lực, vốn đầu tư của trung ương và sự quyết liệt, hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành, tỉnh Lâm Đồng đã và đang tiếp tục triển khai hiệu quả các dự án, tiểu dự án của chương trình. Nhờ đó, tiềm năng, lợi thế của các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh có diện tích rộng nhất cả nước đang được khai thác hiệu quả, hướng tới phát triển hài hòa, bền vững.
Ngành chức năng của tỉnh Lâm Đồng và chính quyền các địa phương đã phối hợp với các đối tượng thụ hưởng đẩy mạnh các dự án hoàn thiện hạ tầng kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, triển khai nhiều mô hình giảm nghèo nhanh, bền vững. Nhìn chung, khoảng cách về mức sống, thu nhập bình quân đầu người của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với bình quân chung của cả tỉnh được thu hẹp, tỷ lệ hộ nghèo, số xã, thôn đặc biệt khó khăn giảm nhanh…

Bên cạnh đó, với việc quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển, đồng thời, tập trung nguồn lực cho phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước tiếp tục được nâng cao. Nhờ đó, hệ thống chính trị cơ sở thêm vững mạnh, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Sau giai đoạn 2021 – 2025, kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của 3 tỉnh trước khi sáp nhập nhìn chung đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Cụ thể, đối với tỉnh Lâm Đồng (cũ), dự kiến tỷ lệ hộ nghèo đa chiều đồng bào dân tộc thiểu số đến cuối năm 2025 là 3,47%, giảm gần 15,5% so với năm 2021. Đối với tỉnh Bình Thuận (cũ), dự kiến tỷ lệ này đến cuối năm 2025 giảm còn 3,6%. Đối với tỉnh Đắk Nông (cũ), địa phương bị đánh giá là có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn nhất trong ba tỉnh, dự kiến tỷ lệ này đến cuối năm 2025 giảm còn 2%, giảm gần 26% so với năm 2021.
Bên cạnh đó, từ việc thực hiện Chương trình 1719, tỉnh Lâm Đồng (cũ) có 4/4 xã khu vực III ra khỏi diện đặc biệt khó khăn và có 36/72 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Đối với tỉnh Đắk Nông (cũ), đến nay có 11/12 xã khu vực III ra khỏi địa bàn xã đặc biệt khó khăn (vượt 4 xã so với kế hoạch) và 122/143 thôn ra khỏi diện địa bàn đặc biệt khó khăn (vượt 50 thôn so với kế hoạch). Riêng đối với tỉnh Bình Thuận (cũ), hiện chưa có kết quả rà soát, tuy nhiên, toàn tỉnh chỉ còn 3 xã khu vực III và 10 thôn đặc biệt khó khăn.
Đối với nội dung hỗ trợ xây dựng nhà ở thuộc Chương trình 1719, lũy kế đến kỳ báo cáo gần nhất, toàn tỉnh Lâm Đồng có hơn 1.600 căn nhà được hỗ trợ. Trong đó, tỉnh Đắk Nông (cũ) là 538 căn; tỉnh Bình Thuận (cũ) là 563 căn và tỉnh Lâm Đồng (cũ) là 523 căn. Tổng kinh phí giải ngân để hỗ trợ xây dựng nhà ở là 120 tỷ đồng. Đây được coi là một nguồn lực quan trọng để tỉnh Lâm Đồng hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà đột nát theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Sở Dân tộc và Tôn giáo Lâm Đồng, việc triển khai thực hiện chương trình trên địa bàn các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận và Đắk Nông (trước khi sáp nhập) đã được các cấp ủy, cấp chính quyền địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên. Các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn của Trung ương được cụ thể hóa thành các quy định, hướng dẫn của địa phương và luôn được quan tâm, ưu tiên thực hiện.
Quá trình thực hiện và kết quả việc rà soát sau sáp nhập tỉnh cho thấy, nội dung các văn bản quản lý điều hành đảm bảo phân cấp, phân quyền, nhất là trao quyền cho chính quyền cơ sở và người dân tham gia các nội dung, dự án. Quá trình triển khai chương trình cơ bản đảm bảo sự công khai, minh bạch, công tác quản lý, điều hành chương trình được thực hiện cơ bản đồng bộ từ trung ương đến địa phương.
Khắc phục khó khăn, hạn chế, tiếp tục nâng cao hiệu quả chương trình
Nhìn chung, khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện chương trình giai đoạn 2021 – 2025 liên quan tới cơ chế, chính sách, cụ thể là các văn bản của Chính phủ, các bộ ngành và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh. Trong đó, nổi bật là các quy định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương chậm ban hành và nhiều thay đổi nên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải ban hành các Nghị quyết, quyết định, kế hoạch để cập nhật, bổ sung, điều chỉnh. Trong đó, đa phần là văn bản quy phạm pháp luật, yêu cầu phải được xây dựng và ban hành theo trình tự chặt chẽ, mất nhiều thời gian.
Thực trạng này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại địa phương; tạo tâm lý thụ động chờ văn bản mới để áp dụng cho thống nhất; một số nội dung quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của trung ương chưa cụ thể, rõ ràng, nhất quán hoặc chưa hợp lý, gây khó khăn cho các địa phương trong việc triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 nói chung, Chương trình 1719 nói riêng được giao cho nhiều Bộ, ngành phân bổ, hướng dẫn triển khai nên còn chậm. Do đó, có nhiều nội dung, dự án, tiểu dự án thiếu sự đồng bộ giữa các chương trình và nhiều quy định mới so với giai đoạn trước, dẫn đến sự lúng túng, khó khăn trong việc nghiên cứu, áp dụng cho phù hợp với thực tế địa phương.

Đối với cấp tỉnh và cấp cơ sở, việc triển khai thực hiện một số dự án đầu tư thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, Chương trình 1719 nói riêng tại một số địa bàn gặp vướng mắc do nằm trong vùng quy hoạch khoáng sản. Trong đó, điển hình là quy hoạch bô xít ảnh hưởng các dự án quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết và các dự án đầu tư hạ tầng của tỉnh Đắk Nông (cũ). Thứ hai là vướng mắc do hạn chế đối tượng thụ hưởng, cụ thể là việc phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp bền vững gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân. Bởi trên thực tế, diện tích rừng chủ yếu đang được giao cho các doanh nghiệp nhà nước, ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng và một số doanh nghiệp tư nhân quản lý…
Cũng theo ngành chức năng, việc trung ương bổ sung nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025, trong đó có Chương trình 1719 vào giữa năm 2022, sau khi các địa phương đã phân bổ gần hết kế hoạch vốn đầu tư công giai đoạn 2021 - 2025 dẫn đến khó khăn trong việc cân đối vốn đối ứng thực hiện các chương trình này. Một số quy định hướng dẫn chậm ban hành nên một số nguồn vốn dự án, tiểu dự án chưa phân bổ hoặc có phân bổ nhưng cũng chưa thể giải ngân. Thêm nữa, việc huy động nguồn lực từ người dân thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia là rất ý nghĩa và cần thiết. Tuy nhiên, đến nay huy động nguồn lực từ người dân còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với nhiều địa phương tại 2 tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông (cũ). Nguyên do là với địa hình nhiều đồi dốc, dân cư sinh sống không tập trung nên định mức huy động rất cao, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa.

Trong giai đoạn 2026 – 2030, tỉnh Lâm Đồng dự kiến tổng mức đầu tư để tiếp tục triển khai chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hơn 3.050 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách trung ương hơn 2.650 tỷ đồng, còn lại (gần 400 tỷ đồng) ngân sách địa phương. Để triển khai hiệu quả hơn nữa chương trình và các tiểu dự án, Lâm Đồng đề nghị Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các Bộ, ngành trung ương sớm tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình (giai đoạn 2026 – 2030). Bên cạnh đó, tỉnh đề nghị Bộ Dân tộc và Tôn giáo sớm hướng dẫn khung chương trình, nội dung, tiểu dự án, dự án thành phần giai đoạn 2026 - 2030; đề nghị Bộ sớm phối hợp với các Bộ, ngành trung ương thông báo dự toán các nguồn vốn thực hiện chương trình; tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định tiêu chí xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030; về tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030./.