Mai Châu là điểm đến hấp dẫn du khách bằng vẻ đẹp nguyên sơ của núi rừng, không khí mát mẻ và mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc. Với chủ trương phát triển du lịch cộng đồng bền vững, các địa phương như Pà Cò, bản Lác đã trở thành điểm sáng, bảo tồn di sản văn hóa, tạo sinh kế cho người dân.

Bản làng của mây, sắc chàm và hồn văn hóa Mông
Hang Kia, Pà Cò là tên gọi của hai xã trước khi sáp nhập thành xã Pà Cò bao gồm các xã Hang Kia, Pà Cò, Cun Pheo. Nơi đây là nơi sinh sống chủ yếu của cộng đồng dân tộc người Mông ở Hòa Bình. Những năm gần đây Hang Kia, Pà Cò đã từng bước chuyển mình phát triển nhờ khai thác lợi thế khí hậu tự nhiên và cảnh quan kỳ vĩ. Những buổi sớm tinh sương, khi mặt trời còn chưa rạng, cả thung lũng chìm trong “biển mây” trắng, tiếng gà gọi sáng vang vọng bản làng. Du khách đến đây sẽ trải nghiệm được hình thái thời tiết của 4 mùa trong một ngày khi buổi sáng mát dịu như mùa Xuân, đến trưa nắng nóng như mùa Hạ, qua chiều se se lạnh như mùa Thu và không gian lạnh giá như mùa Đông khi màn đêm buông xuống.

Anh Khà A Sơn, chủ homestay điểm săn mây ở Hang Kia cho biết, ở Hang Kia và Pà Cò có những điểm cao du khách có thể ngắm nhìn biển mây cuồn cuộn vào mỗi buổi sớm mai như: Điểm Cổng Trời, khu Pà Khôm đi Thung Mài, Thung Mặn… Tại những điểm này có thể ngắm nhìn được đỉnh Pù Luông (Thanh Hóa) và đỉnh Pha Luông (Sơn La).
Hang Kia, Pà Cò còn lưu giữ nhiều phong tục văn hóa độc đáo như Lễ hội Gầu Tào, chợ phiên Pà Cò, các nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, vẽ sáp ong, làm giấy thủ công… Với lợi thế đó, chính quyền địa phương cùng người dân đã phát triển mô hình kinh doanh du lịch homestay nhằm phát triển kinh tế địa phương, nâng cao thu nhập cho người dân.

Hiện nay, có khoảng 16 hộ dân tại Hang Kia, Pà Cò đang tham gia làm homestay cộng đồng, được tổ chức theo mô hình liên kết nông dân - hợp tác xã. Các sản phẩm du lịch ở đây tập trung vào trải nghiệm văn hóa. Du khách có thể học cách nhuộm chàm, thử làm bánh ngô, đi rừng hái thuốc hoặc cùng gia đình chủ nhà nấu món ăn truyền thống, khám phá cung đường trekking từ Mai Châu - Hang Kia - Pà Cò - Mộc Châu, tham quan trải nghiệm tại không gian văn hóa Mông của chị Sùng Y Múa.
Các homestay phục vụ ẩm thực địa phương và cung cấp nhiều phòng nghỉ tiêu biểu như: Y Múa, A Dính, A Dơ, Sơn Bắc, A Páo… Hằng năm, homestay Y Múa đón khoảng 3.000 lượt khách, đạt doanh thu từ 600-700 triệu đồng, tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động tại chỗ. Khách đến đây không chỉ được ngủ nhà sàn, ăn món bản mà còn tham gia trải nghiệm săn mây, đi rừng, làm bánh dày, nhuộm chàm…
Phó Chủ tịch UBND xã Pà Cò Vàng A Váu cho biết, chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện hết sức để hỗ trợ các hộ làm homestay nâng cấp cơ sở vật chất, đồng thời tổ chức các lớp đào tạo kỹ năng đón khách, nghiệp vụ buồng phòng và quảng bá sản phẩm du lịch gắn với văn hóa Mông.
Biểu tượng du lịch cộng đồng kiểu mẫu của người Thái

Nếu Hang Kia và Pà Cò là những địa chỉ du lịch mới nổi, thì bản Lác (xã Chiềng Châu cũ là xã Mai Châu sau sáp nhập) lại là điểm đến nổi tiếng và quen thuộc của tỉnh Hòa Bình. Bản Lác đã khẳng định thương hiệu du lịch cộng đồng kiểu mẫu.
Cách Hà Nội khoảng 140 km, bản Lác là một bản người Thái, chủ yếu thuộc 5 dòng họ Hà, Vì, Mác, Lộc, Lò.

Ngoài những mái nhà sàn truyền thống san sát nhau, con đường đá nhỏ sạch sẽ quanh co lẩn khuất trong thứ ánh sáng mê hoặc của buổi chiều vàng ngọt, nơi đây có cánh đồng trải dài bạt ngàn cùng tiếng suối chảy róc rách, có rặng tre rì rào hay những cây đu đủ trĩu trịt trái bên đường... tạo nên một không gian làng quê yên bình đến lạ thường nơi núi rừng Tây Bắc.
Chị Đỗ Hải Anh (Hà Nội) chia sẻ: Cuộc sống nơi bản Lác hiện lên bình yên trong làn sương khói cùng tình cảm nồng hậu, bình dị của người dân đã tạo nên sức lôi cuốn khó cưỡng đối với bất cứ ai đã từng ghé qua nơi đây. Đối với tôi thì bản Lác là sự hòa quyện hoàn hảo giữa khung cảnh thiên nhiên, mây núi và con người, những cụm bản làng nhỏ xinh với kiến trúc nhà sàn độc đáo bên những cánh đồng lúa nếp nương.

Bản Lác hiện có 125 hộ dân thì tới 73 hộ đăng ký kinh doanh dịch vụ homestay. Thời gian qua, lượng khách nội địa đến đây liên tục gia tăng, mang lại không khí sinh động và tăng thu nhập cho người dân bản địa.
Bản Lác cung cấp các dịch vụ lưu trú, ẩm thực và biểu diễn nghệ thuật dân gian như múa xòe, múa sạp, thổi khèn lá, uống rượu cần… Các hộ dân tham gia làm du lịch cộng đồng và người dân vẫn giữ được nguyên vẹn bản sắc kiến trúc, phong tục truyền thống của dân tộc Thái; đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ thông qua việc học tiếng Anh, kỹ năng giao tiếp và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển theo hướng bền vững bảo tồn thiên nhiên

Du lịch cộng đồng ở Mai Châu là hướng đi phát triển kinh tế mang tính bền vững với mục tiêu bảo tồn thiên nhiên, thông qua đó là cầu nối gìn giữ văn hóa nâng cao chất lượng sống cho người dân vùng cao tỉnh Hòa Bình.
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quách Thúy Kiều cho biết, loại hình du lịch cộng đồng tại Hòa Bình có nhiều thuận lợi bởi vị trí địa lý thuận lợi, cách Thủ đô chỉ khoảng 70 - 80 km, dễ dàng kết nối với các thị trường du khách lớn từ Hà Nội và các tỉnh lân cận. Đặc biệt, các điểm đến như: Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc đã ghi dấu ấn với nhiều mô hình homestay thành công, nơi du khách có thể nghỉ ngơi trong những ngôi nhà sàn truyền thống, thưởng thức ẩm thực địa phương, tham gia các hoạt động như trồng lúa, dệt vải.

Thời gian tới, ngành Du lịch cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, tập huấn chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng marketing và vận hành dịch vụ; chuẩn hóa mô hình homestay nhằm đảm bảo vệ sinh, kiến trúc, không gian bản địa và chất lượng trải nghiệm. Đồng thời, ngành liên kết các vùng du lịch kết nối Hang Kia - Pà Cò - bản Lác - Pù Luông - Mộc Châu thành tuyến du lịch hấp dẫn, đa dạng; phát triển sản phẩm văn hóa - OCOP như thổ cẩm Mông, chè Shan tuyết, rượu cần, mây tre đan, nông sản sạch…

Từ các bản vùng sâu, vùng xa, Hang Kia - Pà Cò - bản Lác đang vươn mình thành những điểm đến tiêu biểu của du lịch cộng đồng Tây Bắc. Những nếp nhà sàn ấm cúng, biển mây bồng bềnh, nụ cười mộc mạc của người Mông, người Thái... tất cả đang tạo nên một hình ảnh Mai Châu đậm đà, bản sắc - một "nét duyên rừng núi" riêng có của tỉnh Hòa Bình./.
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn

Tên tự gọi: Tay hoặc Thay
Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Theo cema.gov.vn
