Sắc gốm Mường Chanh

Sắc gốm Mường Chanh
Bề dày phát triển của các làng gốm đã cho thấy những nét giao thoa văn hóa tương đồng cũng như khác biệt mang tính vùng miền khá thú vị trong kỹ thuật chế tác, trang trí gốm... giữa các làng nghề, từ miền núi đến đồng bằng tới ven biển. Mường Chanh là một đại diện tiêu biểu cho đặc thù gốm thuộc văn hóa miền núi phía Bắc. Hơi thở của núi rừng, của con người Thái đen in dấu cả vào gốm. Bởi vậy, chất gốm Mường Chanh có một vẻ đẹp rất riêng.

Người Thái bắt đầu công việc của mình từ khá sớm, cứ mặt trời lên núi cũng là lúc các nhà bắt tay vào công việc. Ở Mường Chanh, tất cả các thành viên trong gia đình từ già đến trẻ, đều có thể tham gia làm gốm. Phụ nữ và trẻ em tham gia gia công nguyên liệu, quay bàn xoay... đàn ông phụ trách các khâu quan trọng như: thành hình sản phẩm mộc, xếp gốm vào lò, nung gốm. Công cụ chủ yếu nhất trong việc tạo hình gốm của người Thái là bàn xoay bằng thớt gỗ tròn được bà con gọi là cái khiên, đường kính 39 đến 40 cm, cao 19 đến 20 cm, úp trên một trụ gỗ chôn chặt xuống nền nhà. Hầu hết mặt khiên được làm từ gỗ cây sồi. Còn trụ gỗ để xoay thường được làm từ lõi cây tô hợp hay cây mận trồng trong rừng.
Chiếc ấm từ gốm Mường Chanh
 
Như bao làng gốm truyền thống khác, khi tạo hình sản phẩm, người Thái thường xem thời tiết, tránh những ngày mưa, nồm, độ ẩm không khí cao để khi nặn, tạo hình thành sản phẩm không bị sụt xuống. Trường hợp đang nặn gốm gặp trời mưa, họ phải đốt lửa hơ cho khô bớt rồi mới nặn tiếp. Việc dựng hình sản phẩm gốm ở Mường Chanh theo thể tự do, tính quy chuẩn được ước lệ theo mục đích sử dụng, song nhất thiết phải tuân thủ quy trình tạo hình, bắt đầu từ làm đáy, dựng thành, chuốt miệng rồi mới trang trí hoa văn và làm thể phụ. Để làm đáy, người ta rắc một lớp tro mịn chống dính lên bàn xoay, đặt miếng đất sét lên mặt, miết xung quanh cho đất dính chặt vào bàn, dùng gậy gỗ dát mỏng, làm nhẵn mặt đáy, lấy dao tre cắt đáy kết hợp quay bàn xoay thành một vòng tròn quanh đáy sản phẩm.

Hoàn chỉnh phần đáy, người Thái mới chuyển sang dựng thành sản phẩm theo kỹ thuật đắp nặn, dùng 2 tay vê đất thành thỏi dài từ 20 - 30 cm. Tay phải cầm thỏi đất, vừa xoay vừa be đất tạo vòng thành đầu tiên, dùng dụng cụ hình trăng khuyết để miết kỹ chỗ tiếp giáp giữa thành và đáy, tiếp tục làm các vòng thành khác theo lối đắp trạch. Dùng hai dụng cụ uốn cong, một cái trong và một cái ngoài, kết hợp chân quay bàn xoay để miết, làm cho thành sản phẩm cong theo ý muốn. Các loại dụng cụ cơ bản trong tạo hình gốm Mường Chanh là Vi kiểng (các mảnh gỗ hình bán nguyệt, hình liềm); Vi tra (mảnh gỗ hình rìu, có vai), dụng cụ tạo hình cổ chum, lọ gọi là vi. Trong tiếng Thái, vi là tay, tên gọi có gắn chữ vi là các dụng cụ làm tay. Dụng cụ để cắt và khắc là mạy láp (que bằng tre, nứa cắt vát sắc, một đầu nhọn, đầu kia bằng có răng cưa).
Dấu ấn riêng của gốm Mường Chanh

Tạo hình xong, muốn cho sản phẩm đều và nhẵn, người ta dùng 4 mảnh tre, gỗ mỏng để chỉnh hình và chuốt, sau đó dùng một ống thụt có cấu tạo đơn giản như xi lanh gọi là còng sít dùng để nén đất thành sợi, dao tre chạm hoa văn, móc để xén lợi, cắt miệng. Trong quá trình nặn gốm, để chống dính, người ta thường nhúng tay vào chậu nước hay tro bếp. Cuối cùng, dùng sợi móc cắt miệng, lấy giẻ ướt vén đất tạo thành miệng sản phẩm. Tạo hình hoàn chỉnh, người Thái bắt đầu bước sang công đoạn tạo hoa văn. Tùy theo từng loại sản phẩm mà người Thái Mường Chanh trang trí một loại hoa văn hình sóng nước, hình dải chỉ nổi hay cả hai loại hoa văn cùng lúc. Cách trang trí của người Thái đen theo những diễn biến văn hóa tự nhiên, gắn liền với thiên nhiên cuộc sống của con người vùng Tây Bắc.

Trong lịch sử chung của người Việt cổ, đồ đựng bằng gốm được xem là đồ quí bởi độ bền và tính an toàn trong bảo quản lương thực, thực phẩm, đồ uống... Có lẽ đó chính là nguyên do nảy sinh đồ gốm và hình thành nghề gốm, trong những buổi đầu chỉ là vấn đề tự cung, tự cấp. Với người Thái đen Mường Chanh, dùng đồ gốm để đổi ra vật khác như là dấu hiệu sơ khai của hoạt động thương mại, giá trị sản phẩm được tính lũy tiến theo quãng đường mà họ phải đi tới nơi trao đổi, đường càng dài, giá trị sản phẩm càng cao, bởi vậy, theo lời kể của người già, thủa xa xưa, người Thái đen Mường Chanh chủ yếu sống bằng nghề gốm này một cách dễ dàng. 
Một số công cụ làm gốm ở Mường Chanh

Một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp của gốm Mường Chanh là chất đất. Đất Mường Chanh là loại đất dẻo, đất sét pha cao lanh có chất lượng tốt. Đất được khai thác trên mỗi thửa ruộng của gia đình và được chuyển về nhà bằng những đôi sọt nan hoặc được nặn thành từng viên tròn gánh về nhà. Khai thác đất lên, đem sản xuất ngay hoặc bảo quản nơi kín gió để dùng dần. Chất đất làm gốm tại Mường Chanh gồm nhiều màu sắc: vàng, hanh đỏ, xanh xám và đen. Trong đó, chất đất kết dính cao nhất trong số loại chất này là loại hanh đỏ. Ở Việt Nam mỗi vùng gốm đều có 1 đặc trưng riêng từ nguyên liệu cho đến phương phức làm. Không sử dụng những phương pháp lọc đất như những vùng gốm khác, những người thợ Mường Chanh dùng cối giã đất...

Nung gốm là khâu then chốt nhất trong quá trình sản xuất gốm của người Thái ở Mường Chanh vì nó quyết định chất lượng sản phẩm. Mỗi gia đình ở Mường Chanh đều tự làm lấy lò nung gốm. Người ta chọn chỗ đất cứng hay những chỗ đá đang phong hóa đào lò để tiết kiệm củi đốt, sản phẩm chín tốt hơn và vào mùa mưa không bị sập. Người Thái đen sử dụng kiểu lò hầm, hình dáng mu rùa (cao ở giữa và thấp dần ra quanh). Đáy lò không bằng mà dốc nghiêng, thấp dần từ ống khói ra phía cửa lò.
 
Tạo hình trên bàn xoay

Chọn ngày nắng ráo, người ta xếp sản phẩm vào lò nung. Ở Mường Chanh, đốt lò được họ chuẩn bị như một nghi lễ nghiêm cẩn. Người ta đan cây Ta leo để xua đuổi tà ma. Trước khi vào lò, thầy mo sẽ lấy bát nước gạo té lên trên miệng lò và khấn xin trời phù hộ cho mẻ gốm thành công, sau đó cắm Ta leo lên trên miệng lò. Khi vào lò, nhất thiết phải xếp các sản phẩm thành một lớp, không để chồng lên nhau và cũng không lồng cái nhỏ vào cái to; xếp xong mới bắt đầu nung gốm. Ban đầu, người ta đốt nhỏ lửa để sấy gốm cho khô, khi nhìn qua lỗ thông hơi thấy gốm chuyển sang màu hồng lửa, mới tăng thêm củi cho gốm chín. Khi thấy miệng ống khói trắng bạc và ngọn lửa vọt lên khỏi miệng ống khói chừng 1m có màu hồng trông thẳng đứng, nghĩa là gốm đã chín. Thời gian đốt và ủ lò khoảng 24 giờ. Vùng gốm nào cũng đưa yếu tố tâm linh vào, tín ngưỡng chung là thờ thần lửa, cầu may mắn. Nhưng với người, bên cạnh việc mong thần linh phù hộ, làm lễ với cây Ta leo là để trừ ta ma, tránh gặp rủi ro khi đốt lò.

Sản phẩm gốm của người Thái Mường Chanh khá phong phú, gồm hơn 10 thể loại với nhiều hình dáng, kích cỡ khác nhau, chủ yếu là gốm gia dụng như chum, bình có quai, nồi nấu cách thủy, chày cối dùng để nghiền ớt, lục lạc để đeo trâu, bò... Người Thái Mường Chanh còn sản xuất một số đồ gốm có giá trị như: chum to, lọ cổ nhỏ được dùng làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng. Ngày nay, Mường Chanh còn hai tổ gốm lớn nhất là của gia đình ông Lò Văn Loan và gia đình ông Hoàng Văn Nam. Cũng là phương cách làm như nhau, nhưng gia đình ông Hoàng Văn Nam cũng đã có những cải tiến đáng kể trong việc trang trí họa tiết hoa văn. Chưa định hình về kỹ thuật tráng men, nhưng sự sáng tạo trong sản xuất của những người Thái rất đáng ghi nhận.
Vào lò
Đốt lò

Sản phẩm gốm của người Thái Mường Chanh thuộc loại gốm trơn, không tráng men, ít tinh xảo và thậm chí có phần hơi thô, nhưng có lẽ vẻ đẹp của nó lại toát lên chính nhờ sự thô ráp, mộc mạc đó. Gốm Mường Chanh có khá nhiều ưu điểm: nhẹ, độ bền cơ tốt và độ thấm hút nước thấp hơn so với gốm các nơi khác. Nhiên liệu nung gốm ở đây chủ yếu là củi mà hầu hết là tận dụng cây, cành khi phát nương rẫy. Để tạo màu sắc cho gốm, người thợ sẽ lên rừng hái lá dẻ, trước khi dừng lửa, họ cho lá dẻ vào lò rồi lấp cửa, lấp ống khói, trong quá trình ủ, lá cây này khi cháy tạo thành khói đen ám vào sản phẩm và sinh ra màu xám đen rất đặc trưng của gốm Mường Chanh.

Thời gian nung gốm mất khoảng 1 ngày. Lúc đầu đun to lửa, sau đó cho cháy đều và nhỏ lửa dần, giữ cho gốm chín đều và đem ủ 3 ngày 3 đêm ở trong lò để tạo độ chắc, bền cho gốm, khi nguội hẳn mới dỡ lò. Những sản phẩm này sẽ được những người phụ nữ gánh sang các xã lân cận để bán, hoặc được sử dụng để trao đổi hàng hóa tại các phiên chợ.
Trang trí đốt lò

Năm tháng qua đi, bản làng có bao thay đổi, nghề gốm ở Mường Chanh cũng trải qua bấy nhiêu thăng trầm. Trong cuộc sống người miền núi, đồ đựng đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo quản nhu yếu phẩm, điều kiện về giao thông rất khó khăn, giao lưu mua bán hạn chế. Trong bối cảnh đó, cả Mường Chanh hiện nay chỉ còn hai lò đỏ lửa như một biểu hiện của sự nỗ lực gìn giữ những giá trị xưa cũ. Cuộc sống hiện đại cùng những tác động của nó đã tạo ra nhiều thách thức cho nghề gốm Mường Chanh. Sự bảo lưu truyền thống chỉ có thể thực hiện được khi trong nó có những biểu hiện mang tính thời đại. Để làm được điều này, sự quan tâm mang tính liên ngành khoa học, xã hội là điều không thể thiếu được.
Theo vietnamfineart.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Vũng Tàu mở đường vươn mình từ những mũi tiến công lịch sử

Vũng Tàu mở đường vươn mình từ những mũi tiến công lịch sử

Ngày 30/4/1975, chiến dịch giải phóng miền Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước. Vũng Tàu, với vị trí chiến lược quan trọng, là một trong những cứ điểm cố thủ cuối cùng của quân đội Sài Gòn. Đến 13 giờ 30 ngày 30/4, những tên địch cuối cùng buông súng đầu hàng, Vũng Tàu hoàn toàn giải phóng.

"Mùa vàng" sứa biển, ngư dân ven bờ bội thu

"Mùa vàng" sứa biển, ngư dân ven bờ bội thu

Những ngày đầu tháng 4/2025, biển cả đã ban tặng cho ngư dân các xã vùng ven biển Thạch Hà, thị Xã Kỳ Anh, thành phố Hà Tĩnh (Hà Tĩnh) món quà giá trị đó là sứa biển. Liên tiếp những chuyến ra khơi gần bờ đã mang về sản lượng sứa rất lớn, giúp nhiều gia đình ngư dân thu về hàng triệu đồng, tạo nên không khí phấn khởi trong những chuyến ra khơi.

Hiệu quả kinh tế từ trồng lúa giảm phát thải

Hiệu quả kinh tế từ trồng lúa giảm phát thải

Tại tỉnh Trà Vinh, thực hiện Đề án "Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030", người dân đã đăng ký gần 5.000 ha tham gia sản xuất theo mô hình ở vụ sản xuất lúa Hè Thu, cao gấp trên 5 lần so với diện tích tham gia đề án ở vụ lúa Đông Xuân 2024-2025.

Trà Vinh nâng chất tiêu chí nông thôn mới

Trà Vinh nâng chất tiêu chí nông thôn mới

Chiều 4/4, UBND tỉnh Trà Vinh tổ chức hội nghị sơ kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2024 và công tác xóa nhà tạm, dột nát trên địa bàn theo hình thức trực tuyến kết nối với 9 điểm cầu các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh.

Khai mạc Hội chợ thương mại và sản phẩm OCOP tỉnh Phú Thọ năm 2025

Khai mạc Hội chợ thương mại và sản phẩm OCOP tỉnh Phú Thọ năm 2025

Nằm trong chương trình Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần văn hóa du lịch – Đất Tổ 2025, tối 2/4, tại sân vận động Bảo Đà, thành phố Việt Trì, Ban Tổ chức Giỗ tổ Hùng Vương và Tuần văn hóa du lịch – Đất Tổ 2025, Sở Công Thương tỉnh Phú Thọ tổ chức Hội chợ thương mại và sản phẩm OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) tỉnh Phú Thọ năm 2025

Tiền Giang phát triển vùng chuyên canh nuôi nghêu xuất khẩu

Tiền Giang phát triển vùng chuyên canh nuôi nghêu xuất khẩu

Với lợi thế 32 km bờ biển, tỉnh Tiền Giang đã hình thành và phát triển vùng chuyên canh nuôi nghêu trên địa bàn huyện Gò Công Đông có diện tích 2.200 ha, tập trung tại xã Tân Thành, sản lượng khai thác bình quân hàng năm đạt khoảng 20.000 tấn. Nghêu Gò Công có chất lượng tốt, được nhiều người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh ưa chuộng.

"Mỗi xã một sản phẩm" - Động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình

"Mỗi xã một sản phẩm" - Động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình

Với tiềm năng và thế mạnh sẵn có trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh Thái Bình đang ghi dấu ấn đậm nét trong việc triển khai hiệu quả Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP). Chương trình đang là động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới bền vững.

Đồng Tháp đưa toàn bộ sản phẩm OCOP lên các sàn thương mại điện tử

Đồng Tháp đưa toàn bộ sản phẩm OCOP lên các sàn thương mại điện tử

Ông Huỳnh Minh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho biết, đến nay, tỉnh có 581 sản phẩm được công nhận OCOP (464 sản phẩm 3 sao, 116 sản phẩm 4 sao và 1 sản phẩm 5 sao) của 246 chủ thể duy trì kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử; 100% sản phẩm OCOP được duy trì trên các sàn thương mại điện tử.

Đồng Tháp bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Đồng Tháp bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống

Nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, truyền thống, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, tỉnh Đồng Tháp quan tâm bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống.

Nghệ nhân trăn trở “giữ lửa” nghề truyền thống ở Thái Bình

Nghệ nhân trăn trở “giữ lửa” nghề truyền thống ở Thái Bình

Thái Bình có hơn 140 làng nghề được UBND tỉnh công nhận. Việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống luôn được tỉnh quan tâm, chú trọng, trong đó không thể thiếu vai trò của các nghệ nhân - “báu vật sống” nắm giữ tinh hoa của làng nghề. Nhờ tinh thần sáng tạo và tâm huyết của họ, nhiều làng nghề đã “hồi sinh” mạnh mẽ trước nguy cơ bị mai một.

Đồng bào Mông ở Suối Bu thoát nghèo từ cây măng tre bát độ

Đồng bào Mông ở Suối Bu thoát nghèo từ cây măng tre bát độ

Trong những năm gần đây, cây măng tre bát độ đã trở thành "cây xóa đói giảm nghèo" cho đồng bào Mông tại xã Suối Bu, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi, cây măng tre Bát độ không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp cải thiện đời sống của người dân nơi đây.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.

Một số sản phẩm OCOP tiêu biểu của Bình Phước. Ảnh: K GỬIH

Bình Phước khai thác giá trị sản phẩm OCOP

Thực hiện chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (chương trình OCOP), nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã đẩy mạnh khai thác giá trị sản phẩm nông sản, từng bước xây dựng thương hiệu OCOP Bình Phước.

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu tại Quảng Ninh sở hữu những đặc trưng riêng, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong chế biến, phối hợp các thực phẩm. Một trong những món ăn đặc sắc đó là bánh bạc đầu đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Thưởng thức các món bánh thơm ngon và tìm hiểu về văn hóa độc đáo của người Sán Dìu ở vùng cao Quảng Ninh là trải nghiệm đáng nhớ.

Kiên Giang tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường sản phẩm OCOP

Kiên Giang tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường sản phẩm OCOP

Thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Kiên Giang triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển gắn với nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm. Từ đó, số lượng sản phẩm OCOP của tỉnh không ngừng tăng, đặc biệt các sản phẩm từ 3 sao tăng lên 4 sao thời gian gần đây tăng mạnh, giúp tăng sức cạnh tranh hàng hóa, nâng cao thu nhập người dân nông thôn.

Bình Phước xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP

Bình Phước xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP

Để sản phẩm thuộc Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tăng dần về lượng và chất qua từng năm, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước Trần Tuyết Minh đã đề nghị các ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu, có những giải pháp hỗ trợ phát triển các sản phẩm OCOP thế mạnh của tỉnh. Các sở, ngành, địa phương cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng gắn với đẩy mạnh tuyên truyền, tạo điều kiện cho người dân, hợp tác xã tham gia xây dựng, phát triển sản phẩm OCOP, góp phần giới thiệu, quảng bá cũng như tăng thêm tính cạnh tranh cho nông sản Bình Phước trong quá trình hội nhập.

Sau hơn 6 năm triển khai, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tại tỉnh Yên Bái phát triển mạnh mẽ, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Ảnh: TTXVN phát

Yên Bái gia tăng giá trị và thương hiệu cho các sản phẩm OCOP

Sau hơn 6 năm triển khai, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tại tỉnh Yên Bái phát triển mạnh mẽ, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, dần hình thành các vùng nguyên liệu tập trung gắn với chuỗi liên kết để nâng cao giá trị đặc sản của nông sản, đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân và xây dựng nông thôn mới.

 Tham vọng đưa Buôn Ma Thuột trở thành điểm đến của cà phê thế giới

Tham vọng đưa Buôn Ma Thuột trở thành điểm đến của cà phê thế giới

Cà phê là loại nông sản đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, đem lại nguồn sinh kế cho người dân, nhất là người dân vùng Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng; trong đó, Buôn Ma Thuột được mệnh danh là “Thủ phủ Cà phê của Việt Nam”, vì vậy địa phương “tham vọng” trở thành điểm đến của cà phê thế giới. Đây là thông tin được đại diện UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết trong khuôn khổ chuỗi hoạt động và họp báo công bố thông tin Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9 năm 2025, tại Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21/2.

Ảnh minh họa: baobinhdinh.vn

Bình Định xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dừa đặc sản

Tỉnh Bình Định đang có những giải pháp thúc đẩy phát triển ngành dừa nhằm hướng tới nâng cao giá trị, thương hiệu cho “đặc sản” này. Nổi bật là thị xã Hoài Nhơn - nơi được mệnh danh là một trong những vựa dừa lớn nhất của cả nước.

Ứng dụng thiết bị thông minh (máy bay không người lái) phun thuốc bảo vệ thực vật trong canh tác lúa tại Hợp tác xã Thanh Sơn ở xã Vĩnh Bình, huyện Hòa Bình (Bạc Liêu). Ảnh: Tuấn Kiệt

Những nông dân số ở Bạc Liêu

Những năm gần đây, Bạc Liêu đang chứng kiến sự thay đổi lớn trong ngành nông nghiệp thông qua việc ứng dụng công nghệ số. Đây là một xu hướng chuyển mình mạnh mẽ, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thay đổi diện mạo ngành nông nghiệp ở địa phương này.

Khách tham quan vườn quýt hồng Hai Kiệt ở xã Long Hậu, huyện Lai Vung (Đồng Tháp). Ảnh: Nhựt An - TTXVN

Lai Vung phát triển nghề truyền thống

Huyện Lai Vung là một trong những địa phương của tỉnh Đồng Tháp có nhiều nghề truyền thống. Thời gian qua, ngành chức năng của huyện Lai Vung nỗ lực bảo tồn, phát triển các nghề truyền thống theo hướng hài hòa giữa gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống với cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, thích ứng nền kinh tế thị trường.