Đặc sắc lễ hội Lồng Tồng tại Bình Phước

Tại huyện Đồng Phú của tỉnh Bình Phước, cộng đồng dân tộc Tày, Nùng vẫn còn gìn giữ và phát huy những nét đẹp truyền thống, trong đó nổi bật là lễ hội Lồng Tồng. Lễ hội này đã được tổ chức liên tiếp 3 lần, với sự tham gia ngày càng đông đảo của người dân, đặc biệt là giới trẻ, các lễ hội đã thực sự trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại; giúp thế hệ mai sau hiểu thêm về cội nguồn và những giá trị tốt đẹp của cha ông.

Dân tộc Nùng

Tên tự gọi: Nồng.

Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...

Dân số: 968.800 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...

Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh...

Họ biết làm nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà, Cao Bằng) rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.

Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao duyên.

Ăn: Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó.

Mặc: Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.

: Người Nùng cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta, họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.

Phương tiện vận chuyển: Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp: địa chủ và nông dân.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắc lì) và giỏ đựng con sợi (cởm lót).Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.

Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.

Sinh đẻ: Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.

Ma chay: Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.

Nhà mới: Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt.

Thờ cúng: Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh... Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ.

Lễ tết: Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày.

Lịch: Người Nùng theo âm lịch.

Học: Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè.

Người ta thường Sli với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe.

Chơi: Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Nùng
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Khắc phục kịp thời sạt lở cồn Thanh Long

Khắc phục kịp thời sạt lở cồn Thanh Long

Ngày 5/12, Ủy ban nhân dân xã Quới Thiện (tỉnh Vĩnh Long) cho biết, địa phương đang tích cực phối hợp với ngành chức năng và người dân triển khai các giải pháp khắc phục tình hình sạt lở tại khu vực đê bao cồn Thanh Long.

Dứa chết hàng loạt, người nông dân thiệt hại nặng nề

Dứa chết hàng loạt, người nông dân thiệt hại nặng nề

Hàng trăm ha cây dứa của người dân trên địa bàn xã Hà Long và phường Quang Trung, tỉnh Thanh Hóa, đang trong giai đoạn phát triển xanh tốt, bỗng nhiên héo úa và chết hàng loạt trong khoảng một tháng trở lại đây, gây thiệt hại nặng nề cho người nông dân. Hiện chính quyền địa phương đang thống kê mức thiệt hại, tìm giải pháp hỗ trợ giúp nông dân giảm thiệt hại do cây dứa bị chết.

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Festival mùa đông Bắc Hà mang đến nhiều trải nghiệm độc đáo

Festival mùa đông Bắc Hà mang đến nhiều trải nghiệm độc đáo

Từ ngày 14-23/11, Festival mùa đông “Sắc màu cao nguyên” diễn ra tại xã Bắc Hà, tỉnh Lào Cai với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch đặc sắc, mang đến cho du khách những trải nghiệm độc đáo của mùa đông vùng cao.
Festival nhằm giới thiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch mùa đông đặc sắc của vùng cao Bắc Hà, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Giữa không gian núi rừng Điện Biên, lực lượng người có uy tín từ lâu giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng. Am hiểu phong tục, tiếng nói địa phương, họ là cầu nối đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân một cách gần gũi và thuyết phục.

Thắp sáng tri thức miền biên viễn

Thắp sáng tri thức miền biên viễn

Hơn 60 năm trước, đồng bào Rục đã được chính quyền và Bộ đội Biên phòng vận động rời hang đá, về định cư, bắt đầu hành trình hòa nhập với cộng đồng. Đến nay, thách thức lớn nhất vẫn là xóa bỏ mù chữ để bà con có thể biết đọc, biết viết, góp phần nâng cao kiến thức, phát triển sản xuất, tạo sinh kế bền vững.

Nỗ lực duy trì bữa ăn bán trú cho học sinh vùng khó Quảng Ngãi

Nỗ lực duy trì bữa ăn bán trú cho học sinh vùng khó Quảng Ngãi

Trường Trung học Cơ sở Măng Cành, xã Măng Đen, tỉnh Quảng Ngãi có 177 học sinh nhưng chỉ có 65 em được hưởng chế độ bán trú. Do điều kiện khó khăn về kinh tế cũng như hạ tầng giao thông, việc không được hưởng bán trú khiến công tác duy trì sĩ số gặp nhiều khó khăn. Nhà trường đã kêu gọi các nhà hảo tâm cùng đồng hành để hỗ trợ cho các em còn lại được ăn bán trú; thậm chí, nhiều em nhà xa sẽ được bố trí để ở nội trú trong trường.

Nguồn vốn tín dụng 'cứu cánh' cho người nghèo ở Quảng Ngãi

Nguồn vốn tín dụng 'cứu cánh' cho người nghèo ở Quảng Ngãi

Khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay là trở ngại để người dân miền núi Quảng Ngãi thoát nghèo. Thấu hiểu được điều đó, những năm qua, tính dụng chính sách xã hội đã đồng hành và đang trở thành chiếc phao cứu sinh cho người dân nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.

Đồng bào K’Ho xây dựng cà phê OCOP trên cao nguyên Langbiang

Đồng bào K’Ho xây dựng cà phê OCOP trên cao nguyên Langbiang

Năm 2022, thương hiệu cà phê Chư Mui được ông Ha Hoang ở phường Langbiang – Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng sáng lập và liên kết với 7 hộ dân địa phương để sản xuất và chế biến theo hướng hữu cơ với tổng diện tích gần 15 ha, thu nhập bình quân gần 500 triệu đồng/ha/năm.

Khởi công trường phổ thông nội trú liên cấp đầu tiên tại Lạng Sơn

Khởi công trường phổ thông nội trú liên cấp đầu tiên tại Lạng Sơn

Ngày 9/11, tại Khu tái định cư Pắn Pé, thôn Hợp Thành, xã Khuất Xá, UBND tỉnh Lạng Sơn tổ chức khởi công xây dựng công trình Trường phổ thông nội trú liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở Khuất Xá. Đây là công trình đầu tiên trong tổng số 11 trường phổ thông nội trú liên cấp vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn sẽ được thực hiện từ nay đến năm 2027.

Nan giải nguồn nhân lực dạy tiếng Anh ở vùng khó Điện Biên

Nan giải nguồn nhân lực dạy tiếng Anh ở vùng khó Điện Biên

Năm học 2025-2026, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Điện Biên tiếp tục đối mặt với tình trạng thiếu hụt giáo viên tiếng Anh. Thực trạng này không chỉ gây áp lực lớn cho đội ngũ đang giảng dạy mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 tại nhiều trường vùng khó.

Đưa bản sắc văn hóa vào trường học

Đưa bản sắc văn hóa vào trường học

Tại Trường Tiểu học Thái Phiên, phường Ea Kao, tỉnh Đắk Lắk, chuyên đề “Nghề dệt vải thổ cẩm của đồng bào Ê Đê - Tây Nguyên” được chọn là nội dung giáo dục địa phương tiêu biểu trong năm học này.

Mang dịch vụ công đến gần với người dân

Mang dịch vụ công đến gần với người dân

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tiếp cận dịch vụ công trực tuyến, phường Thảo Nguyên, tỉnh Sơn La, đã triển khai mô hình “Ngày Chủ nhật hành động - Mang dịch vụ công đến tổ dân phố” gắn với việc thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số”. Mô hình đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân.

Nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên không gian mạng

Nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên không gian mạng

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động ứng dụng không gian mạng trong công tác tuyên truyền, giúp chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến gần hơn với người dân, góp phần nâng cao nhận thức và lan tỏa những giá trị tích cực trong cộng đồng.

Đánh thức tiềm năng phát triển du lịch cao nguyên Sìn Hồ

Đánh thức tiềm năng phát triển du lịch cao nguyên Sìn Hồ

Được mệnh danh là “Sa Pa thứ hai” của vùng Tây Bắc, Cao nguyên Sìn Hồ (Lai Châu) không chỉ hấp dẫn bởi khí hậu mát mẻ quanh năm và cảnh quan hùng vĩ, mà còn là nơi lưu giữ nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Mông, Dao. Những năm gần đây, xã Sìn Hồ đã và đang khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch gắn với bảo tồn thiên nhiên và bản sắc văn hóa, từng bước đưa du lịch trở thành hướng phát triển kinh tế bền vững của địa phương.

Nông nghiệp tuần hoàn gắn với du lịch trải nghiệm ở nông thôn

Nông nghiệp tuần hoàn gắn với du lịch trải nghiệm ở nông thôn

Khu bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải (xã Tân Cương, tỉnh Thái Nguyên) là một trong những điển hình về công tác bảo tồn di sản sống gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở vùng nông thôn Việt Nam. Đến đây, du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống vùng nông thôn tươi đẹp của văn hóa người Tày; trải nghiệm cuộc sống hằng ngày với các hoạt động như làm thuốc nam, nấu rượu, xay thóc, giã gạo, chơi đàn tính và các trò chơi dân gian…

Nhân rộng mô hình bản sáng vùng biên

Nhân rộng mô hình bản sáng vùng biên

Thời gian qua, Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thanh Hóa đã phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng mô hình “Bản sáng vùng biên”. Sau hơn 1 năm thực hiện, 11 bản khó khăn tại khu vực biên giới Thanh Hóa đã phát huy được nội lực, nhiều hộ dân vươn lên thoát nghèo.

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Lào ở Điện Biên

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Lào ở Điện Biên

Điện Biên là địa phương có đông đồng bào dân tộc Lào sinh sống, với những nét văn hóa đặc trưng được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Bằng tình yêu và niềm tự hào dân tộc, cộng đồng người Lào nơi đây vẫn đang bền bỉ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc.

Nỗi lo mất an toàn trên tuyến đường độc đạo liên bản có gần 200 điểm sạt lở

Nỗi lo mất an toàn trên tuyến đường độc đạo liên bản có gần 200 điểm sạt lở

Dù đã qua mùa mưa nhưng tuyến đường độc đạo liên bản, nối trung tâm xã Tủa Sín Chải với các bản Thành Chử, Tỉa Khí, Phi Én của tỉnh Lai Châu vẫn còn gần 200 điểm sạt lở lớn, nhỏ chưa được khắc phục. Điều này khiến hoạt động thường ngày của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Chống sạt lở, đảm bảo an toàn cho người dân vùng biên giới

Chống sạt lở, đảm bảo an toàn cho người dân vùng biên giới

Từ năm 2019, thôn Z’Lao thuộc xã Tây Giang đã được chính quyền tỉnh Quảng Nam cũ tổ chức tái định cư với điện, đường, trường, trạm kiên cố. Nhưng do là thôn có vị trí xa nhất xã, lại nằm cô lập bên bờ hồ thủy điện A Vương nên tuyến đường nối thôn với trung tâm xã rất quan trọng. Tuy nhiên, trong mùa mưa bão, trên tuyến đường này lại xuất hiện nhiều điểm sạt lở, gây nguy hiểm cho người dân khi đi lại, cũng như nguy cơ bị chia cắt.

Khơi lại mùa nước lành

Khơi lại mùa nước lành

Sau trận lũ lớn, hàng trăm hộ dân ở xã Tiên Lục (Bắc Ninh) rơi vào cảnh trắng tay, mất kế sinh nhai. Không chỉ hỗ trợ trước mắt, nhiều tổ chức, cá nhân đã chung tay khơi lại sinh kế bền vững giúp người dân vượt khó, từng bước làm chủ cuộc sống trên chính mảnh đất quê hương mình.

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Tháp Bà Pô Nagar

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Tháp Bà Pô Nagar

Tháp Bà Pô Nagar ở phường Bắc Nha Trang - một công trình mang đậm dấu ấn lịch sử, kiến trúc và tâm linh, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc Chăm - Việt. Nơi đây là điểm đến nổi tiếng thu hút hàng nghìn lượt du khách đến tham quan mỗi năm.

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Trước tình hình triều cường diễn biến phức tạp, mực nước dâng cao hơn các năm trước, các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt ở các xã chuyên canh sầu riêng như Hiệp Đức, Mỹ Thiện… khẩn trương triển khai các biện pháp gia cố các đoạn đê thấp, yếu nhằm bảo vệ vườn cây ăn trái cũng như sinh mạng cùng tài sản người dân.