Đặc sắc lễ hội Lồng Tồng tại Bình Phước

Tại huyện Đồng Phú của tỉnh Bình Phước, cộng đồng dân tộc Tày, Nùng vẫn còn gìn giữ và phát huy những nét đẹp truyền thống, trong đó nổi bật là lễ hội Lồng Tồng. Lễ hội này đã được tổ chức liên tiếp 3 lần, với sự tham gia ngày càng đông đảo của người dân, đặc biệt là giới trẻ, các lễ hội đã thực sự trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại; giúp thế hệ mai sau hiểu thêm về cội nguồn và những giá trị tốt đẹp của cha ông.

Dân tộc Nùng

Tên tự gọi: Nồng.

Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...

Dân số: 968.800 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...

Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh...

Họ biết làm nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà, Cao Bằng) rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.

Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao duyên.

Ăn: Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó.

Mặc: Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.

: Người Nùng cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta, họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.

Phương tiện vận chuyển: Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp: địa chủ và nông dân.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắc lì) và giỏ đựng con sợi (cởm lót).Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.

Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.

Sinh đẻ: Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.

Ma chay: Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.

Nhà mới: Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt.

Thờ cúng: Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh... Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ.

Lễ tết: Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày.

Lịch: Người Nùng theo âm lịch.

Học: Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè.

Người ta thường Sli với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe.

Chơi: Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Nùng
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Đảm bảo an toàn cho người dân khu vực ven sông suối

Đảm bảo an toàn cho người dân khu vực ven sông suối

Nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân trong mùa mưa lũ, nhất là tại khu vực ven sông, suối, Điện Biên đã đầu tư xây dựng nhiều công trình kè chống sạt lở. Khi các công trình hoàn thiện, người dân thêm yên tâm, giảm nỗi lo mỗi mùa mưa lũ về.

Những nghĩa cử cao đẹp từ cuộc sống đời thường

Những nghĩa cử cao đẹp từ cuộc sống đời thường

“Khi dân cần, khi dân khó, có Công an”. Đây không chỉ là câu khẩu hiệu suông, mà ở đó còn là những hành động thiết thực. Khi thiên tai, mưa lũ xảy ra, hình ảnh các cán bộ, chiến sĩ lao vào tâm lũ cứu dân như những anh hùng giữa đời thường đã mang lại nhiều xúc động.

Tái định cư cho người dân có nhà 'treo' bên bờ sạt lở

Tái định cư cho người dân có nhà 'treo' bên bờ sạt lở

Trận lũ xảy ra vào cuối tháng 7 với mực nước dâng vượt đỉnh lịch sử đã làm hơn 7.400 ngôi nhà tại nhiều xã miền núi của tỉnh Nghệ An bị đổ, vùi lấp. Hàng trăm ngôi nhà nằm chênh vênh bên bờ tại các lưu vực sông, vùng có nguy cơ sạt lở cao, tiềm ẩn những mối hiểm nguy.

Đảm bảo vệ sinh môi trường sau mưa lũ tại Sơn La

Đảm bảo vệ sinh môi trường sau mưa lũ tại Sơn La

Tại xã Huổi Một, tỉnh Sơn La, đợt mưa lớn cuối tháng 7 đã gây lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng ở một số tuyến đường, giao thông chia cắt, nhiều bản bị cô lập, đời sống, sinh hoạt của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Cùng với đó, sau mưa lũ, xác động vật, củi, rác, bùn đất đọng lại trên các suối, khu dân cư... nguy cơ cao xảy ra dịch bệnh do môi trường bị ô nhiễm và thiếu nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày của nhân dân.

Đắk Lắk quyết tâm xóa toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát trong tháng 8/2025

Đắk Lắk quyết tâm xóa toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát trong tháng 8/2025

Triển khai chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, tỉnh Đắk Lắk hỗ trợ xây mới và sửa chữa gần 9.000 căn nhà cho hộ nghèo, gia đình chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn. Nhờ sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, đơn vị, lực lượng, nên đến nay, tất cả các địa phương trong tỉnh đã hoàn thành khởi công xây dựng và quyết tâm bàn giao toàn bộ nhà trong tháng 8/2025.

'Về làng trải nghiệm văn hóa truyền thống' trong tháng 8 tại Đồng Mô

'Về làng trải nghiệm văn hóa truyền thống' trong tháng 8 tại Đồng Mô

Theo Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ VHTTDL), từ ngày 1 đến 29-8-2025, tại Làng Văn hóa, du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Hà Nội), tổ chức các hoạt động tháng 8 với chủ đề "Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống" với các hoạt động thiết thực, bổ ích, ý nghĩa.

Khắc phục khó khăn, linh hoạt vận hành chính quyền địa phương 2 cấp

Khắc phục khó khăn, linh hoạt vận hành chính quyền địa phương 2 cấp

Sau một tháng đi vào hoạt động chính thức, mô hình chính quyền địa phương hai cấp tại tỉnh Cao Bằng đã vận hành ổn định, thông suốt, từng bước đi vào nền nếp. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng chính quyền mới đang góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.

Khó khăn chồng chất vùng cô lập sau lũ lịch sử ở miền tây Nghệ An

Khó khăn chồng chất vùng cô lập sau lũ lịch sử ở miền tây Nghệ An

Cùng với nhiều xã ở vùng miền Tây Nghệ An, xã Mỹ Lý là một trong nhưng địa phương chịu thiệt hại nặng nề trong đợt lũ vừa qua. Đây cũng là vùng bị cô lập dài ngày. Cho đến nay, dù các lực lượng chức năng, cùng các đoàn cứu trợ đã tiếp cận được địa bàn để hỗ trợ người dân. Tuy nhiên, trước mắt và lâu dài, người dân nơi đây đang đối diện với muôn vàn khó khăn.

Xây dựng thương hiệu nhãn Sơn Thủy

Xây dựng thương hiệu nhãn Sơn Thủy

Cuối tháng 7 là thời điểm nhãn Sơn Thủy của xã Nật Sơn, tỉnh Phú Thọ bước vào vụ thu hoạch. Theo đánh giá của ngành nông nghiệp và các nhà vườn, điều kiện thời tiết năm nay thuận lợi nên sản lượng và chất lượng quả cao hơn năm trước. Giá thành nhãn đầu vụ được gần 30.000 đồng/kg và ổn định ở mức từ 15.000 - 20.000 đồng/kg.

Vị Xuyên tháng Bảy - Nơi ký ức còn xanh mãi

Vị Xuyên tháng Bảy - Nơi ký ức còn xanh mãi

Những ngày tháng Bảy, cả nước hướng về Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên (Tuyên Quang) trở thành điểm đến linh thiêng những bước chân lặng lẽ nhưng nặng trĩu nghĩa tình, tri ân. Từ mọi miền Tổ quốc, thân nhân liệt sĩ, cựu chiến binh, cán bộ, chiến sĩ và đông đảo nhân dân về đây để thắp nén tâm hương, cúi đầu tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì biên cương Tổ quốc.

Xóa nhà tạm, nhà dột nát - Nghĩa đồng bào, tình dân tộc

Xóa nhà tạm, nhà dột nát - Nghĩa đồng bào, tình dân tộc

Dọc khắp các vùng miền của Tổ quốc, trong những ngày tháng này, nhiều mái ấm kiên cố tiếp tục được dựng xây bằng tình yêu thương, sự sẻ chia và tinh thần đùm bọc lẫn nhau. Số lượng nhà được khởi công và bàn giao tăng lên từng ngày, không chỉ là những con số mang tính định lượng đơn thuần, mà đó còn là những con số của lòng dân - thể hiện sự đồng thuận, quyết tâm và nghĩa tình giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Kiều bào trẻ trải nghiệm văn hóa cà phê tại Bảo tàng Thế giới Cà phê

Kiều bào trẻ trải nghiệm văn hóa cà phê tại Bảo tàng Thế giới Cà phê

Nằm trong chuỗi hoạt động của “Trại hè Việt Nam 2025” – hành trình xuyên Việt dành cho thanh niên, sinh viên kiều bào do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao tổ chức, hơn 100 trại sinh đến từ 31 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có mặt tại Đắk Lắk – thủ phủ cà phê của Việt Nam. Một trong những điểm nhấn đáng nhớ trong hành trình tại đây là chuyến tham quan Bảo tàng Thế giới Cà phê – nơi lưu giữ và tôn vinh văn hóa cà phê Việt và thế giới.

Những mái ấm nghĩa tình trước ngày 27/7

Những mái ấm nghĩa tình trước ngày 27/7

Chỉ còn ít tuần nữa là đến ngày 27/7 - Ngày Thương binh - Liệt sĩ, dịp để cả nước tưởng nhớ, tri ân những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đặc biệt, tại nhiều địa phương, công tác hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng và thân nhân liệt sỹ đang được làm với tinh thần khẩn trương, quyết liệt để kịp về đích trước ngày 27/7 theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Lào Cai bảo đảm an toàn cho các vùng có nguy cơ sạt lở

Lào Cai bảo đảm an toàn cho các vùng có nguy cơ sạt lở

Ngay sau khi xảy ra vụ sạt lở đất thương tâm vào ngày 13/7, khiến 2 người chết, 3 người bị thương tại thôn Khe Qué (xã Xuân Ái, tỉnh Lào Cai), lãnh đạo tỉnh Lào Cai và chính quyền địa phương đã tổ chức thăm hỏi, hỗ trợ các gia đình nạn nhân lo hậu sự; đồng thời triển khai các biện pháp di dời người dân ra khỏi khu vực sạt lở.

Nghĩa tình trên vùng đất lửa Quảng Đà

Nghĩa tình trên vùng đất lửa Quảng Đà

Hướng tới kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, để tri ân người có công, đến nay, thành phố Đà Nẵng đã xây mới và sửa chữa 2.938 ngôi nhà trên tổng số 2.942 ngôi nhà tạm, nhà dột nát, đạt tỷ lệ 99,86%, cho đối tượng là người có công và thân nhân liệt sĩ.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Thắp sáng niềm tin trong cơ sở cai nghiện

Thắp sáng niềm tin trong cơ sở cai nghiện

Từ tháng 3/2025, Công an tỉnh Gia Lai đã chính thức tiếp nhận quản lý Cơ sở cai nghiện ma túy từ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Sau khi tiếp nhận, cán bộ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy phát hiện, trong tổng số 238 học viên có nhiều học viên không biết chữ, phần lớn là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn. Để hỗ trợ các học viên, cán bộ, chiến sĩ của cơ sở cai nghiện đã mở lớp xóa mù chữ, không những giúp học viên biết đọc, biết viết, mà còn mở ra cơ hội để họ thay đổi nhận thức, làm lại cuộc đời.

Khám phá vẻ đẹp nên thơ của vịnh Vĩnh Hy

Khám phá vẻ đẹp nên thơ của vịnh Vĩnh Hy

Nằm về phía Nam tỉnh Khánh Hòa, vịnh Vĩnh Hy nằm trong Vườn quốc gia Núi Chúa (thuộc Khu dự trữ sinh quyển thế giới Núi Chúa, xã Vĩnh Hải), đang là một trong những điểm đến thu hút đông đảo du khách trong mùa hè bởi vẻ đẹp hoang sơ, yên bình cùng với nhiều hoạt động du lịch hấp dẫn.

Đắk Lắk chủ động chống khô hạn cho lúa vụ hè thu

Đắk Lắk chủ động chống khô hạn cho lúa vụ hè thu

Dự báo thời tiết trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk năm nay có nắng nóng có thể xảy ra kéo dài khiến cho nguồn nước tưới vụ Hè Thu bị suy giảm, dễ xảy ra khô hạn cục bộ. Xã Phú Hòa 2 có diện tích trồng lúa lớn và là cây trồng chính, khoảng 2.000 hecta lúa đang có nguy cơ khô hạn do cuối nguồn nước. Nhiều diện tích lúa mới gieo sạ vào cuối tháng 6/2025 đã khô hạnm mặt ruộng nứt “chân chim”, nông dân không thể tiến hành chăm sóc, bón phân nên cây lúa chậm phát triển.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Những ngôi nhà mới và niềm tin về một tương lai tươi sáng

Những ngôi nhà mới và niềm tin về một tương lai tươi sáng

Hàng chục nghìn mái ấm được dựng lên tại các vùng khó khăn, mang đến niềm vui, sự bình yên và hy vọng về một tương lai tươi sáng cho người nghèo. Những ngôi nhà mang tình cảm ấm áp và dấu ấn Công an nhân dân sẽ góp phần củng cố, xây dựng vững chắc thế trận an ninh nhân tại cơ sở.

Đắk Lắk sử dụng đồng bộ hệ thống chỉ đạo, điều hành

Đắk Lắk sử dụng đồng bộ hệ thống chỉ đạo, điều hành

Hệ thống Quản lý văn bản và điều hành đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và chia sẻ văn bản điện tử giữa các cơ quan nhà nước, hướng tới xây dựng một nền hành chính điện tử, minh bạch và hiệu quả. Trước khi hợp nhất tỉnh Phú Yên và Đắk Lắk, mỗi địa phương áp dụng giải pháp công nghệ để liên thông văn bản khác nhau. Khi vận hành chính quyền địa phương hai cấp, tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều giải pháp bảo đảm vận hành thống nhất và hiệu quả.

Đồng vốn chính sách chắp cánh ước mơ thoát nghèo

Đồng vốn chính sách chắp cánh ước mơ thoát nghèo

Từ nguồn vốn tín dụng chính sách, hàng chục nghìn hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk đã có cơ hội thay đổi cuộc sống, phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo bền vững. Không chỉ giúp người dân tiếp cận nguồn lực tài chính ưu đãi, hoạt động tín dụng chính sách tại địa phương còn được triển khai bài bản, sát thực tiễn, đảm bảo đồng vốn đến đúng người, đúng nhu cầu và đúng mục đích sử dụng.

Xã Phiêng Pằn vận hành chính quyền hai cấp

Xã Phiêng Pằn vận hành chính quyền hai cấp

Cùng với các địa phương trong cả nước, từ ngày 1/7/2025, xã biên giới Phiêng Pằn (mới), tỉnh Sơn La vận hành chính quyền địa phương 2 cấp. Phiêng Pằn (mới) được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 xã là Chiềng Lương, Phiêng Pằn, Nà Ớt của huyện Mai Sơn (cũ).

Nguy cơ sạt lở đe dọa nhiều hộ dân miền núi Thanh Hóa

Nguy cơ sạt lở đe dọa nhiều hộ dân miền núi Thanh Hóa

Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa cho biết, thực hiện Đề án sắp xếp ổn định dân cư khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất tại khu vực miền núi, giai đoạn 2021 - 2025, đến nay, Thanh Hóa đã vận động, hỗ trợ được 408 hộ di chuyển đến nơi ở mới. Tuy nhiên, hiện vẫn đang còn nhiều hộ dân phải sống trong vùng có nguy cơ cao bị sạt lở, hoặc xảy ra lũ ống, lũ quét.