Đặc sắc lễ hội Lồng Tồng tại Bình Phước

Tại huyện Đồng Phú của tỉnh Bình Phước, cộng đồng dân tộc Tày, Nùng vẫn còn gìn giữ và phát huy những nét đẹp truyền thống, trong đó nổi bật là lễ hội Lồng Tồng. Lễ hội này đã được tổ chức liên tiếp 3 lần, với sự tham gia ngày càng đông đảo của người dân, đặc biệt là giới trẻ, các lễ hội đã thực sự trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại; giúp thế hệ mai sau hiểu thêm về cội nguồn và những giá trị tốt đẹp của cha ông.

Dân tộc Nùng

Tên tự gọi: Nồng.

Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...

Dân số: 968.800 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...

Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh...

Họ biết làm nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà, Cao Bằng) rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.

Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao duyên.

Ăn: Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó.

Mặc: Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.

: Người Nùng cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta, họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.

Phương tiện vận chuyển: Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp: địa chủ và nông dân.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắc lì) và giỏ đựng con sợi (cởm lót).Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.

Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.

Sinh đẻ: Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.

Ma chay: Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.

Nhà mới: Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt.

Thờ cúng: Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh... Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ.

Lễ tết: Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày.

Lịch: Người Nùng theo âm lịch.

Học: Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè.

Người ta thường Sli với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe.

Chơi: Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Nùng
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Trước tình hình triều cường diễn biến phức tạp, mực nước dâng cao hơn các năm trước, các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt ở các xã chuyên canh sầu riêng như Hiệp Đức, Mỹ Thiện… khẩn trương triển khai các biện pháp gia cố các đoạn đê thấp, yếu nhằm bảo vệ vườn cây ăn trái cũng như sinh mạng cùng tài sản người dân.

Sáng tạo 'Thông tin Biên cương số' phục vụ nhân dân

Sáng tạo 'Thông tin Biên cương số' phục vụ nhân dân

Thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tháng 4/2025, Đồn Biên phòng Bắc Xa, tỉnh Lạng Sơn đã sáng tạo triển khai mô hình “Thông tin biên cương số”. Đây không chỉ là giải pháp công nghệ mà còn thể hiện sáng tạo, chủ động của lực lượng biên phòng trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và giải quyết những khó khăn đặc thù của địa bàn miền núi biên giới.

Mưa lớn gây ảnh hưởng nặng tại Sơn La

Mưa lớn gây ảnh hưởng nặng tại Sơn La

Do ảnh hưởng của hoàn lưu áp thấp nhiệt đới suy yếu từ cơn bão số 11, từ sáng 6/10, trên địa bàn tỉnh Sơn La có mưa lớn gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân và giao thông đi lại của người dân...

'Kho vàng nghiến' và những người giữ rừng bằng trái tim

'Kho vàng nghiến' và những người giữ rừng bằng trái tim

Xóm Bo Trẳm (xã Ngổ Luông, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình trước đây) được bao bọc bởi một “tấm khiên xanh” khổng lồ, cùng núi đá tai mèo sừng sững của Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn-Ngổ Luông. Bức tranh thiên nhiên hùng vỹ ấy có quần thể 11 cây cây nghiến cổ thụ vững chãi, trầm mặc, trong số đó có những cây tuổi đời đã hàng nghìn năm và được công nhận là Cây di sản Việt Nam.

Thắp sáng ước mơ đến trường từ nguồn vốn chính sách

Thắp sáng ước mơ đến trường từ nguồn vốn chính sách

Ngày cầm trên tay tờ giấy báo trúng tuyển đại học cũng là ngày em Hoàng Thị Hải Yến ở xã Xuân Viên, tỉnh Phú Thọ đối mặt với bao trăn trở. Bố mẹ đi làm xa, bà nội là chỗ dựa tinh thần duy nhất…, gánh nặng học phí là nỗi lo đè nặng lên đôi vai cô học trò nhỏ và người bà đã già. Nhưng nhờ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng chính sách dành cho học sinh, sinh viên, Yến đã có thể tiếp tục theo đuổi ước mơ trở thành phiên dịch viên.

Sene Dolta - nét văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer

Sene Dolta - nét văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer

Trên địa bàn thành phố Cần Thơ, đồng bào Khmer đang rộn ràng đón lễ Sene Dolta. Đây là một trong những truyền thống tốt đẹp, mang tính nhân văn, giáo dục sâu sắc của đồng bào Khmer, góp phần vào sự đa dạng của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Lễ Sen Đôn Ta - nét đẹp văn hóa của đồng bào Khmer

Lễ Sen Đôn Ta - nét đẹp văn hóa của đồng bào Khmer

Lễ Sen Đôn Ta là mùa lễ truyền thống lớn trong năm của đồng bào Khmer Nam Bộ, thể hiện rõ nét về sự hiếu kính của con cháu đối với bậc sinh thành và tổ tiên, nhắc nhở mọi người nguồn cội. Đây là dịp để mọi người trong phum sóc, dòng tộc củng cố mối quan hệ gia đình, dòng tộc và cộng đồng; gắn bó giữa các thế hệ, duy trì các giá trị cộng đồng và tăng cường mối quan hệ đoàn kết.

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Ngày 20/9, tại sân đua bò xã Tri Tôn (Khu Liên hợp Thể thao - Du lịch Tà Pạ - Soài Chek), Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh An Giang phối hợp với Báo và Phát thanh - Truyền hình An Giang, UBND xã Tri Tôn tổ chức Hội đua bò Bảy Núi tranh cúp Truyền hình An Giang lần thứ 30, năm 2025. Đây là sự kiện văn hóa – thể thao đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer vùng Bảy Núi tỉnh An Giang vào dịp lễ Sen Đôn Ta (lễ cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.

Nâng cao chất lượng y tế cho đồng bào thiểu số

Nâng cao chất lượng y tế cho đồng bào thiểu số

Tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Điện Biên, nơi cuộc sống còn bộn bề khó khăn, chăm lo sức khỏe cho người dân luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Việc đảm bảo để mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, có chất lượng không chỉ là mục tiêu, mà còn là trách nhiệm và sự sẻ chia nhân văn.

Giữ gìn, phát triển thương hiệu làng nghề ươm tơ Cổ Chất

Giữ gìn, phát triển thương hiệu làng nghề ươm tơ Cổ Chất

Làng nghề ươm tơ Cổ Chất (xã Ninh Giang, tỉnh Ninh Bình) hình thành từ hàng trăm năm; được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thời kỳ thịnh vượng, cả làng có tới trên 90% số hộ theo nghề. Tuy nhiên, do cơ chế thị trường, sản phẩm làng nghề đang gặp nhiều khó khăn, cả làng hiện chỉ còn gần 30 hộ theo nghề.

Ý Đảng, lòng dân ở miền biên viễn Lai Châu

Ý Đảng, lòng dân ở miền biên viễn Lai Châu

Tẩn A Dài là người con của đồng bào Dao ở xã Tả Lèng, tỉnh Lai Châu. Sinh ra trong nghèo khó, bằng nghị lực và sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị, anh đã thoát nghèo, làm giàu và xây dựng thành công xưởng gạch, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, giải quyết việc làm cho nhiều lao động trong bản. Câu chuyện của A Dài không chỉ là minh chứng về nghị lực mà còn thể hiện hiệu quả từ những chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền đã thấm sâu, đồng hành cùng người dân trong hành trình thoát nghèo.

Giá dừa ở Vĩnh Long tăng cao

Giá dừa ở Vĩnh Long tăng cao

Từ đầu năm đến nay, giá dừa ở Vĩnh Long liên tục tăng và duy trì ở mức cao. Khoảng 1 tuần nay, giá dừa khô tiếp tục tăng thêm 20.000 đồng/chục (12 quả). Hiện dừa khô được thương lái thu mua tại vườn có giá từ 220.000 - 240.000 đồng/chục, cao hơn 100.000 đồng/chục so với đầu năm. Đây là mức giá cao nhất từ trước đến nay.

Bảo tàng cổ vật Mũi Né - Điểm đến độc đáo cho du khách

Bảo tàng cổ vật Mũi Né - Điểm đến độc đáo cho du khách

Giữa làng biển yên bình ở phường Mũi Né, tỉnh Lâm Đồng, có một không gian văn hóa rất đặc biệt, nơi lưu giữ hàng chục nghìn cổ vật gắn với chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là Bảo tàng cổ vật Mũi Né, do ông Nguyễn Ngọc Ẩn- một nhà sưu tầm cổ vật với niềm đam mê từ thuở nhỏ trực tiếp vận hành.

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Thực hiện Kế hoạch 100 ngày cao điểm triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số” của tỉnh Đắk Lắk, Tổ công nghệ số cộng đồng Buôn Alê B, phường Ea Kao đang hoạt động hết “công suất” để tuyên truyền đến từng bà con buôn làng về chủ trương chuyển đổi số và thực hành làm thủ tục hành chính trên môi trường số.

Độc lạ mô hình sưu tầm nông cụ Nam bộ ở Đồng Tháp

Độc lạ mô hình sưu tầm nông cụ Nam bộ ở Đồng Tháp

Nhằm giúp cho con cháu thế hệ sau hiểu được những vất vả của các thế hệ cha ông đi trước trong công cuộc đi khai hoang, sản xuất nông nghiệp, ông Cao Tấn Hiệu ở xã Bình Ninh, tỉnh Đồng Tháp đã dành thời gian sưu tập, lưu giữ hàng trăm nông cụ sản xuất nông nghiệp gắn bó với người nông dân.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là một trong những địa phương sở hữu di sản Thực hành Then, được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa Kinh Bắc, tiếng Then vang lên vừa mộc mạc vừa tha thiết; được cộng đồng nâng niu, gìn giữ và coi như một nét đẹp góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đa sắc màu nơi đây.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Dấu ấn đổi thay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Dấu ấn đổi thay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Sau 4 năm triển khai, Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2025 (Chương trình 1719) đã và đang tạo nên những đổi thay căn bản. Không chỉ là những con số về thu nhập hay hạ tầng, mà quan trọng hơn, đây là một cuộc cách mạng mang tính toàn diện: xóa bỏ đói nghèo, thay đổi diện mạo, và nâng cao nội lực cho gần 14,2 triệu đồng bào dân tộc thiểu số trên khắp cả nước.

Đẩy nhanh tiến độ làm nhà cho người dân vùng lũ

Đẩy nhanh tiến độ làm nhà cho người dân vùng lũ

Với tinh thần ‘Vì nhân dân phục vụ’, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Điện Biên đang triển khai đợt thi đua “30 ngày Thần tốc - Về đích” nhằm quyết tâm hoàn thành xây dựng, sửa chữa nhà ở cho nhân dân bị thiệt hại do thiên tai trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

Học sinh vùng lũ Nghệ An đón khai giảng năm học mới

Học sinh vùng lũ Nghệ An đón khai giảng năm học mới

Sáng 5/9, cùng với cả nước, hơn 945.000 học sinh tỉnh Nghệ An hân hoan đón chào năm học mới. Đặc biệt, tại các địa phương miền núi, dù nhiều trường học bị ảnh hưởng nặng nề trong 2 đợt bão lũ vừa qua, nhưng với tinh thần vượt khó, các nhà trường đã kịp thời khắc phục hậu quả, chuẩn bị tốt nhất về cơ sở vật chất để đón học sinh vào năm học mới.

Mượn trụ sở UBND xã để tổ chức khai giảng nơi vùng lũ Mường Luân

Mượn trụ sở UBND xã để tổ chức khai giảng nơi vùng lũ Mường Luân

Dù mới trải qua thiệt hại nặng nề bởi thiên tai và phải mượn trụ sở UBND xã để tổ chức Lễ Khai giảng, thế nhưng, thầy và trò trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Trung học cơ sở Chiềng Sơ, xã Mường Luân (tỉnh Điện Biên) vẫn có một ngày khai trường đầy trang trọng và ấm áp.

Về Đồng Tháp trải nghiệm du lịch mùa nước nổi

Về Đồng Tháp trải nghiệm du lịch mùa nước nổi

Những địa phương ở vùng đầu nguồn của tỉnh Đồng Tháp, trong đó có xã Thường Phước đang vào mùa lũ (hay còn gọi là mùa nước nổi). Tận dụng nét đặc trưng riêng có đó, xã Thường Phước mở tour du lịch trải nghiệm mùa nước nổi. Bước đầu, mô hình này tạo hiệu ứng tích cực, thu hút nhiều du khách.