Đưa nước sạch đến với người dân vùng biên giới

Nhiều hộ dân tại xã biên giới Bù Gia Mập (tỉnh Đồng Nai) phấn khởi khi được hỗ trợ hệ thống ống dẫn nước sạch. Hơn 34.000m ống nước đã và đang được chính quyền địa phương cùng các đơn vị tài trợ lắp đặt tại 5 thôn trên địa bàn xã.

dong-nai-1.jpg
Đơn vị hỗ trợ đường ống cho hệ thống cấp nước sinh hoạt thực hiện lễ bàn giao cho xã Bù Gia Mập.

Thời gian qua, tình trạng thiếu nước sinh hoạt tại Bù Gia Mập diễn biến ngày càng nghiêm trọng do đặc điểm khí hậu khô hạn và địa hình cao. Vào mùa khô, xã nằm ở độ cao trung bình khoảng 400m so với mực nước biển nên nguồn nước sạch thường xuyên khan hiếm. Trước thực tế đó, UBND xã Bù Gia Mập cùng các ban, ngành đã tích cực vận động các tổ chức, doanh nghiệp và nhà hảo tâm hỗ trợ, nhằm đảm bảo nguồn nước phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân.

Những ngày đầu tháng 10, người dân xã Bù Gia Mập phấn khởi khi được bàn giao ống cho hệ thống nước sạch từ Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh. Hệ thống được kết nối từ nguồn giếng nước sinh hoạt tập trung đã được Nhà nước đầu tư trước đó tại các thôn, giúp hoàn thiện mạng lưới cấp nước về tận từng hộ dân.

Ông Trần Lâm, Chủ tịch UBND xã Bù Gia Mập, cho biết, hệ thống cấp nước sạch được thực hiện trong Chương trình phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế khó khăn, các hộ dân chưa có khả năng đầu tư thiết bị để đấu nối từ hệ thống nước chung vào tận nhà. Nhờ sự hỗ trợ kịp thời của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh và chính quyền địa phương, người dân đã có điều kiện sử dụng nguồn nước ổn định, an toàn, góp phần cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống.

Ông Trần Lâm đánh giá thêm: Dự án thể hiện sự đồng hành, chia sẻ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Việc tài trợ ống nước và phụ kiện đấu nối không chỉ giúp hệ thống nước sạch được vận hành thuận lợi, mà còn mang lại lợi ích thiết thực, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân vùng biên giới.

Lãnh đạo xã Bù Gia Mập cùng đơn vị hỗ trợ kiểm tra ống đấu nối với hệ thống cấp nước sạch của địa phương.

Lãnh đạo xã Bù Gia Mập cùng đơn vị hỗ trợ kiểm tra ống đấu nối với hệ thống cấp nước sạch của địa phương.

Sau khi bàn giao thiết bị cho hệ thống ống nước sạch, ông Niwat Athiwattananont, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh, chia sẻ: Dự án tài trợ hệ thống cấp nước sạch tại xã Bù Gia Mập được triển khai trong 30 ngày, với hơn 34.000m ống được lắp đặt. Công trình hoàn thành nhờ sự chung tay của đội ngũ kỹ thuật Nhựa Bình Minh, các đối tác, chính quyền địa phương và bà con tại 5 thôn. Ông bày tỏ niềm vui khi hệ thống nước sạch được bàn giao, giúp hơn 1.000 hộ dân có nguồn nước sạch, an toàn để sử dụng hằng ngày, góp phần nâng cao đời sống người dân.

Gia đình anh Điểu Líp, ở thôn Bù La, cũng như nhiều hộ dân khác trên địa bàn xã Bù Gia Mập không giấu được niềm vui và xúc động khi đón nhận hệ thống ống dẫn nước sạch về tận nhà. Anh chia sẻ: Trước đây, mỗi khi hết nước, gia đình phải chạy lên công trình nước sinh hoạt tập trung để lấy. Do nhiều người cùng lấy một lúc nên phải chờ đợi rất lâu. Giờ đây, nước đã về tận nhà, việc sinh hoạt hằng ngày của gia đình trở nên thuận tiện hơn rất nhiều.

Cũng tại thôn Bù La, ông Điểu Khon vui mừng cho biết: Từ nay, gia đình không còn phải vất vả đi lấy nước ở công trình tập trung nữa. Có nước sạch về tận nhà, bà con trong thôn ai cũng phấn khởi. Ông Điểu Khon hy vọng với hệ thống nước sạch này, người dân sẽ bớt khó khăn hơn trong mùa khô sắp tới.

Những niềm vui giản dị ấy cho thấy hiệu quả thiết thực của dự án cấp nước sạch, góp phần cải thiện đời sống sinh hoạt và mang lại sự yên tâm cho người dân vùng biên giới.

Anh Điểu Líp (thôn Bù La, xã Bù Gia Mập) vui mừng khi ống đấu nối với hệ thống cấp nước sạch về tận nhà.

Anh Điểu Líp (thôn Bù La, xã Bù Gia Mập) vui mừng khi ống đấu nối với hệ thống cấp nước sạch về tận nhà.

Ông Điểu Phin, Trưởng thôn Bù La (xã Bù Gia Mập), cho biết: Thôn có 220 hộ dân được thụ hưởng hệ thống cấp nước sạch. Trước đây, mỗi khi vào mùa khô, hầu hết người dân trong thôn rơi vào tình trạng thiếu nước sạch nghiêm trọng. Dù đã có công trình nước do chính quyền địa phương đầu tư, bà con vẫn phải đến Nhà văn hóa cộng đồng để lấy nước, rất bất tiện vì phải chờ đợi do lượng người đông. Nay, nhờ các đơn vị và chính quyền địa phương lắp đặt hệ thống ống nước sạch, bà con vô cùng phấn khởi. Nước được dẫn về tận nhà, giúp việc sinh hoạt hằng ngày của các hộ dân thuận tiện hơn rất nhiều.

Xã Bù Gia Mập hiện có hơn 1.800 hộ dân, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 75%, với 17 dân tộc sinh sống, chủ yếu là người S’tiêng và M’nông. Cuộc sống của người dân nơi đây còn nhiều khó khăn, vì vậy việc hỗ trợ ống cho hệ thống cấp nước sạch mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dự án không chỉ giúp người dân có nguồn nước sạch, đảm bảo vệ sinh, mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt, nhất là đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới, tạo thêm động lực để họ yên tâm lao động, gắn bó với quê hương./.

Dân tộc M'nông

Tên tự gọi: Mnông.

Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...

Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.

Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.

Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.

Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.

: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.

Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.

Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.

Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.

Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.

Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.

Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.

Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.

Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.

Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.

Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.

Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc M'nông
Dân tộc Xtiêng

Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.

Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.

Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.

Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.

Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).

: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.

Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.

Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.

Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...

Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.

Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".

Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.

Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.

Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.

Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.

Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Xtiêng

Có thể bạn quan tâm

Lan tỏa sâu rộng, thực chất và hiệu quả phong trào thi đua yêu nước

Lan tỏa sâu rộng, thực chất và hiệu quả phong trào thi đua yêu nước

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”, những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo triển khai sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước gắn với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Các phong trào đã tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, khơi dậy tinh thần sáng tạo, cống hiến và đoàn kết trong toàn xã hội.

Sản phẩm OCOP 'lên đời' nhờ du lịch

Sản phẩm OCOP 'lên đời' nhờ du lịch

Phát triển các sản phẩm thuộc Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) gắn với du lịch đang là hướng đi mới được được tỉnh Phú Thọ tập trung nguồn lực thực hiện và bước đầu đã mang lại kết quả, góp phần nâng cao giá trị kinh tế cho khu vực nông thôn, phát huy được tiềm năng thế mạnh của địa phương.

Nghệ An: Xã miền núi Nga My thiệt hại nặng nề do lũ ống, lũ quét

Nghệ An: Xã miền núi Nga My thiệt hại nặng nề do lũ ống, lũ quét

Sáng 29/9/2025, tại xã Ngay My (tỉnh Nghệ An) xảy ra mưa lớn, nước từ thượng nguồn ồ ạt đổ về khiến các khe, suối trên địa bàn đột ngột dâng cao, chảy xiết, xảy ra lũ ống, lũ quét trên diện rộng gây ngập lụt hàng trăm ngôi nhà, hơn 50 ngôi nhà bị hư hại, trong đó có 3 nhà bị lũ cuốn trôi toàn bộ nhà cửa, tài sản, 2 nhà phải di dời khẩn cấp, nhiều nhà hư hỏng nặng; quốc lộ 48C qua địa bàn xuất hiện nhiều điểm ngập khiến giao thông bị tê liệt; toàn xã bị mất điện trong nhiều ngày; 2 cầu dân sinh và 3 cầu tạm bị lũ cuốn trôi, 1 cầu tràn hư hỏng nặng.

Rộn ràng mùa hội trăng rằm tháng Tám

Rộn ràng mùa hội trăng rằm tháng Tám

Trung thu là Tết của tình thân, là dịp để trẻ em hồn nhiên vui tươi, phá cỗ, rước đèn. Với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi, khu vực biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số niềm vui ấy càng nhân lên gấp bội khi có được sự quan tâm, yêu thương từ cộng đồng. Hòa chung không khí Trung thu trên cả nước, những ngày qua, nhiều hoạt động ý nghĩa đã diễn ra tại tỉnh Đắk Lắk, mang đến cho thiếu nhi mùa hội trăng rằm ấm áp và tràn đầy tiếng cười.

Ứng phó bão số 11: Chủ động di dời 31 hộ dân ở Lũng Cú khỏi vùng nguy cơ sạt lở

Ứng phó bão số 11: Chủ động di dời 31 hộ dân ở Lũng Cú khỏi vùng nguy cơ sạt lở

Ứng phó với bão số 11 (Matmo) có khả năng gây mưa lớn tại các tỉnh phía Bắc, trong đó có Tuyên Quang, cấp ủy, chính quyền xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang đã triển khai phương án di dời 31 hộ dân với 169 nhân khẩu tại thôn Má Lầu A đến nơi an toàn. Đây là khu vực được xác định có nguy cơ sạt lở rất cao khi đất đá đã no nước, nhiều điểm nứt mới xuất hiện trên sườn núi.

Tư vấn pháp luật miễn phí trong vùng đồng bào dân tộc

Tư vấn pháp luật miễn phí trong vùng đồng bào dân tộc

Ngày 4/10, tại xã Hưng Hội (tỉnh Cà Mau), Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu (cũ) tổ chức chương trình "Ngày hội Tư vấn pháp luật miễn phí". Đây là một trong các hoạt động hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam (10/10/1945 - 10/10/2025). Dịp này, Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu (cũ) trao tặng 50 suất quà cho các hộ gia đình chính sách, hộ dân tộc Khmer có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã Hưng Hội.

Sáng 4/10 đã tìm thêm được hai thi thể người dân gặp nạn sau vụ sạt lở đất nghiêm trọng tại xã Lũng Cú

Sáng 4/10 đã tìm thêm được hai thi thể người dân gặp nạn sau vụ sạt lở đất nghiêm trọng tại xã Lũng Cú

Theo Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, đến 8h30 phút sáng 4/10, cán bộ, chiến sĩ đồn Biên phòng Lũng Cú phối hợp với cấp ủy, chính quyền và các lực lượng tìm kiếm được thêm 2 nạn nhân trong vụ sạt lở đất tại thôn Mã Lầu A, xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang, đó là cháu Vàng Xuân Hoa, sinh năm 2023 và cháu Vàng Minh Hải, sinh năm 2024.

Khẩn trương tìm kiếm 3 nạn nhân mất tích ở Lũng Cú

Khẩn trương tìm kiếm 3 nạn nhân mất tích ở Lũng Cú

Ngày 3/10, ông Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang đã trực tiếp có mặt tại thôn Má Lầu A, xã Lũng Cú - nơi xảy ra vụ sạt lở đất đặc biệt nghiêm trọng khiến 4 người dân bị vùi lấp. Đến thời điểm này, lực lượng cứu hộ mới tìm thấy 1 nạn nhân, còn 3 người khác vẫn đang mất tích.

Sát cánh cùng người dân từng bước trở lại cuộc sống bình yên sau lũ dữ

Sát cánh cùng người dân từng bước trở lại cuộc sống bình yên sau lũ dữ

Những ngày này, sau khi dòng nước lũ rút, khắp các xã, phường của tỉnh Tuyên Quang hiện lên cảnh tượng tan hoang: Lớp bùn đất dày đặc phủ kín sân nhà, đường phố, rác thải, cành cây, đồ đạc gia đình bị cuốn trôi chất thành đống, nằm ngổn ngang nơi ngõ xóm. Cả hệ thống chính trị tỉnh Tuyên Quang cùng chung tay khắc phục hậu quả của trận lũ lịch sử.

Lào Cai dồn lực khắc phục hậu quả bão số 10

Lào Cai dồn lực khắc phục hậu quả bão số 10

Ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 10, tỉnh Lào Cai bị thiệt hại nặng về người và tài sản của nhân dân, Nhà nước. Sau bão, Đảng bộ và chính quyền các cấp tỉnh Lào Cai nhanh chóng triển khai các phương án, giải pháp để sớm ổn định đời sống nhân dân, phục hồi sản xuất, kinh doanh.

Tình người giữa vùng bão lũ Tuyên Quang

Tình người giữa vùng bão lũ Tuyên Quang

Trận lũ lịch sử đầu tháng 10/2025 đã gây thiệt hại nặng nề tại Tuyên Quang, khiến 8 người chết và mất tích, hàng nghìn hộ dân rơi vào cảnh khốn khó, nhiều trường học, trạm y tế, công trình hạ tầng bị tàn phá. Trong hoạn nạn, những nỗ lực cứu hộ kịp thời, những suất cơm nóng và bàn tay sẻ chia từ lực lượng chức năng cùng cộng đồng đã trở thành điểm tựa, sưởi ấm và tiếp thêm sức mạnh để người dân vượt qua lũ dữ.

Sát cánh cùng nhân dân khắc phục hậu quả lũ dữ

Sát cánh cùng nhân dân khắc phục hậu quả lũ dữ

Ngay sau khi nước lũ bắt đầu rút, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang Hầu A Lềnh đã trực tiếp kiểm tra tình hình tại phường Hà Giang 1, Hà Giang 2 (tỉnh Tuyên Quang) - những nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất.

Nghệ An: Bản làng bị cô lập, người dân liều mình vượt suối Nậm Ngân bằng bè mảng

Nghệ An: Bản làng bị cô lập, người dân liều mình vượt suối Nậm Ngân bằng bè mảng

Đêm ngày 28/9/2025, do mưa cường suất lớn diễn ra nhiều giờ, nước từ thượng nguồn suối Nậm Ngân ồ ạt đổ về, nhanh chóng dâng cao, dòng chảy xiết, ngập nhiều nhà cửa, ruộng vườn của người dân bản Canh (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) cuốn trôi cây cầu sắt dân sinh bắc qua suối Nậm Ngân trên tuyến đường độc đạo tại bản Canh cô lập hơn 30 hộ dân với hơn 160 nhân khẩu. Dân bản đã kết bè mảng bằng tre nứa làm phương tiện qua suối tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra rủi ro.

Trung thu yêu thương đến với thiếu nhi khắp mọi miền

Trung thu yêu thương đến với thiếu nhi khắp mọi miền

Hòa chung không khí Tết Trung thu trên cả nước, nhiều hoạt động ý nghĩa đã được các đơn vị, địa phương tổ chức nhằm mang đến niềm vui cho thiếu nhi, đặc biệt là những em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, con công nhân lao động, trẻ em vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số.

Ấm áp chương trình 'Biên cương - Đêm hội trăng rằm' Việt Nam - Lào

Ấm áp chương trình 'Biên cương - Đêm hội trăng rằm' Việt Nam - Lào

Tối 2/10, tại trường Tiểu học và Trung học cơ sở Hướng Việt (xã Hướng Lập, Quảng Trị), Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị tổ chức Chương trình “Biên cương - Đêm hội trăng rằm” Việt Nam - Lào lần thứ 4 cho 1.000 thiếu nhi trên địa bàn xã và 150 học sinh ở cụm bản La Cồ, huyện Sê Pôn (tỉnh Savannakhet, Lào).

Nỗi lo của nông dân trồng bí đỏ vùng biên

Nỗi lo của nông dân trồng bí đỏ vùng biên

Những ngày này, tại khu vực biên giới xã Ia O, tỉnh Gia Lai, người dân đang bước vào vụ thu hoạch bí đỏ. Trái với kỳ vọng về một mùa bội thu, sản lượng và giá bán năm nay đều giảm, khiến nhiều hộ gia đình đứng trước nỗi lo không cân đối được chi phí sản xuất.

Đội dịch vụ lưu động nâng cao sức khỏe vùng sâu

Đội dịch vụ lưu động nâng cao sức khỏe vùng sâu

Trung tâm Y tế khu vực Phú Riềng (tỉnh Đồng Nai) đã triển khai Chiến dịch tăng cường tuyên truyền vận động và lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ngay tại các Trạm Y tế xã trên địa bàn. Để đảm bảo mọi người dân, đặc biệt là phụ nữ, được tiếp cận các dịch vụ y tế thiết thực, Trung tâm Y tế khu vực Phú Riềng đã thành lập “Đội dịch vụ lưu động”.

Tìm thấy thi thể các nạn nhân mất tích do lũ quét, sạt lở tại Cao Bằng và Tuyên Quang

Tìm thấy thi thể các nạn nhân mất tích do lũ quét, sạt lở tại Cao Bằng và Tuyên Quang

Ngày 2/10, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng thông tin, các lực lượng chức năng đã phát hiện thi thể cuối cùng là nạn nhân mất tích trong vụ lũ quét xảy ra tại khu vực Ban điều hành Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh, xóm Bản Néng, xã Đức Long. Qua xác nhận của gia đình, nạn nhân là Đinh Thị Hải sinh năm 1989, trú tại Ninh Bình.

Lào Cai tạm ngừng tổ chức tour, tuyến du lịch đến khu vực chịu ảnh hưởng của bão

Lào Cai tạm ngừng tổ chức tour, tuyến du lịch đến khu vực chịu ảnh hưởng của bão

Nhằm tập trung ứng phó, khắc phục hậu quả bão số 10 và mưa lũ sau bão trong lĩnh vực du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai vừa có văn bản đề nghị các khu, điểm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh tạm ngừng tổ chức các tour, tuyến du lịch đến những khu vực chịu ảnh hưởng của bão cho đến khi có thông báo chính thức về tình hình an toàn sau bão.

Ảnh hưởng bão số 10: Sạt lở nghiêm trọng gây ách tắc giao thông đi Mù Cang Chải

Ảnh hưởng bão số 10: Sạt lở nghiêm trọng gây ách tắc giao thông đi Mù Cang Chải

Chiều 1/10, thông tin từ Công ty cổ phần Xây dựng đường bộ I - Yên Bái, tỉnh Lào Cai cho biết, do ảnh hưởng của mưa lớn kéo dài trong những ngày qua gây sạt lở nghiêm trọng tuyến đường Quốc lộ 32 với nhiều điểm sạt lở; trong đó, khu vực đèo Khau Phạ, xã Tú Lệ bị sạt lở nghiêm trọng làm chia cắt giao thông từ Nghĩa Lộ đi Mù Cang Chải và Than Uyên (Lai Châu).