Hàng năm, theo truyền thống Phật giáo Nam tông Khmer, sau mỗi mùa an cư kiết hạ, các chùa Khmer tại các tỉnh, thành phố Nam Bộ lại tổ chức lễ dâng y Kathina. Đây là dịp để Phật tử dâng y cà sa lên chư Tăng đã hoàn mãn ba tháng nhập hạ. Đặc biệt, nghi lễ này chỉ diễn ra trong vòng một tháng kể từ ngày mãn hạ, mỗi chùa chỉ tổ chức thọ y một lần duy nhất theo giới luật.
Năm nay, lễ dâng y Kathina diễn ra từ ngày 1 rôch tháng Ăsŭch (hạ nguyệt) đến ngày 15 cơt rằm tháng Kătdăk (thượng nguyệt) theo âm lịch Khmer, tương ứng từ ngày 8/10 đến hết ngày 5/11 theo dương lịch. Đây được gọi là mùa lễ Kathina, được quy định từ thời Đức Phật còn tại thế và duy trì cho đến ngày nay.


Thượng tọa Lâm Hiệp, trụ trì chùa Tum Núp (xã An Ninh, TP Cần Thơ) cho biết, theo thông lệ, vào dịp này, đồng bào Phật tử Khmer và nhà chùa trong các phum, sóc thống nhất định ngày hành lễ cụ thể, nhằm tạo điều kiện để các gia đình tín chủ sẽ chủ động tổ chức lễ dâng y lên chư Tăng sau mùa an cư kiết hạ. Lễ dâng y Kathina có điểm đặc biệt so với dâng y thường. Trong năm, thí chủ có thể dâng y thường dùng bất cứ lúc nào, không hạn định và hoàn toàn tùy theo lòng hảo tâm. Chư Tỳ-khưu cũng có thể thọ y thường bất cứ thời gian nào. Tuy nhiên, dâng y Kathina hạn định chỉ trong 29 ngày. Thời gian này, mỗi vị Tỳ-khưu chỉ được thọ y Kathina một lần duy nhất vào ngày hành lễ, không nhận thêm trong những ngày còn lại.
Mỗi chùa mỗi năm chỉ tổ chức lễ dâng y một lần, vào bất kỳ ngày nào trong tháng lễ. Việc cúng dường được thực hiện dâng lên toàn thể chư Tăng, không dâng riêng bất kỳ cá nhân Tỳ-khưu nào. Sau đó, y cà sa được phân giao theo quy định của giới luật. Tín chủ đặt y trước Tăng đoàn và tác bạch dâng cúng. Chư Tăng tiếp nhận bằng sự im lặng, theo giới luật định.
Nhân dịp này, phật tử còn tổ chức lễ dâng bông nhằm vận động quyên góp kinh phí phục vụ cho việc xây dựng và tu bổ các hạng mục trong khuôn viên chùa.


Kru Achar Chia Đan, chùa Tum Núp, xã An Ninh, TP Cần Thơ cho biết: "So với năm 2024 có 8 tín chủ tham gia, năm nay số lượng tăng với 10 tín chủ tổ chức lễ dâng y Kathina dâng cúng lên chùa Tum Núp. Các tín chủ đã thành tâm dâng y cà sa và nhiều vật phẩm thiết yếu đến chư Tăng sau mùa an cư kiết hạ, thể hiện tinh thần hộ trì Tam bảo và duy trì truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Nam tông Khmer".
Lễ Kathina diễn ra trong hai ngày. Ngày đầu tiên, các Phật tử tổ chức tại tư gia, gọi là "đám phước". Gia đình tín chủ tiếp đón bà con trong phum sóc và khách mời gần xa đến chung vui, cùng hoan hỷ công đức. Với nhiều nghi thức truyền thống và các tiết mục văn nghệ đặc sắc, góp phần mang đến sự vui tươi, gắn kết cộng đồng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Khmer.
Dịp này gia đình tín chủ và bà con trong phum sóc cùng nhau nguyên góp các vật dụng, tiền tùy theo lòng hảo tâm của từng người, sau đó thỉnh chư tăng đến tụng kinh cầu an chúc phúc cho gia chủ và bà con trong phum sóc được ấm no, hạnh phúc.
Ngày thứ hai của lễ, bà con tổ chức đoàn rước y đi qua các xóm làng, phum sóc trong tiếng nhạc rộn ràng và điệu múa Chhay-dăm sôi động, thu hút đông đảo người dân tham gia. Khi đoàn đến chùa, lễ Kathina được cử hành trang nghiêm tại chánh điện với các nghi thức: quy y Tam bảo, tụng kinh, thuyết pháp và dâng y, thọ y Kathina. Phần hội diễn ra sau đó với các hoạt động văn nghệ, trò chơi dân gian đặc sắc như hát Dù kê, múa Romvong... Achar Chia Đan nói.

Bà Sơn Thị Pẹp, tín chủ dâng y Kathina tại ấp Xà Lan, xã An Ninh, TP Cần Thơ cho biết: "Năm nay, gia đình chúng tôi tạo dựng lễ Kathina dâng lên chùa Patum Reangsey Tum Núp. Tôi rất hoan hỉ khi được cùng con cháu chuẩn bị lễ vật và các tứ vật dụng thiết yếu để dâng lên chư Tăng, như: y cà sa, bình bát, vở, bút và nhiều vật dụng phục vụ cho việc học tập, sinh hoạt hằng ngày của sư sãi. Trong đó, chiếc y cà sa là vật phẩm không thể thiếu, mang ý nghĩa thiêng liêng trong lễ Kathina.
Bên cạnh đó, gia đình cũng dâng một số vật dụng thường dùng như bàn ghế, giường, mùng, mền... thể hiện lòng thành kính và góp phần trang trí, hỗ trợ đời sống cho các sư và nhà chùa".


Lễ dâng y Kathina năm 2025 diễn ra trong không khí trang nghiêm, vui tươi, thể hiện sâu sắc đời sống tín ngưỡng và văn hóa đặc sắc của đồng bào Khmer. Đây không chỉ là nét đẹp truyền thống của Phật giáo Nam tông, mà còn là dịp kết nối cộng đồng, vun đắp đời sống tinh thần, mang đến phát triển bền vững và đậm đà bản sắc dân tộc.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
