Cao Bằng vài nét tổng quan

Cao Bằng vài nét tổng quan
1. Điều kiện tự nhiên 

Vị trí địa lý

Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở vùng Đông Bắc, phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc), đường biên giới dài trên 333 km, phía Tây giáp 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, phía Nam giáp 2 tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Theo chiều Bắc – Nam 80 km (từ xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm đến xã Quang Trọng, huyện Thạch An). Theo chiều Đông – Tây 170 km (từ xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang đến xã Thạch Lâm, huyện Bảo Lâm).

Tỉnh Cao Bằng được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 22o21'21" đến 23o07'12" vĩ độ Bắc và từ 105o16'15 kinh độ Đông với tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.703,42 km2. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với đường biên giới dài hơn 333km; Phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Lạng Sơn; Phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Trung tâm tỉnh là Thành phố Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km theo đường Quốc lộ 3, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 130 km theo đường Quốc lộ 4A.

Địa hình

Địa hình của tỉnh khá phức tạp với độ cao trung bình so với mặt biển trên 300m, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Địa hình của tỉnh được chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng địa trũng (vùng trung tâm) có địa hình khá bằng phẳng, bao gồm đồi thấp xem kẽ các cánh đồng tương đối rộng, phân bố chủ yếu ở huyện Hòa An, Thành phố Cao Bằng và các xã phía Nam huyện Hà Quảng; Vùng núi đất: chạy từ phía Tây Bắc huyện Bảo Lạc, qua huyện Nguyên Bình xuống phía Tây Nam huyên Thạch An. Là vùng có địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, có đỉnh núi cao gần 2000m, như Phja Dạ (Bảo Lâm) 1980m, Phja Oắc (Nguyên Bình) 1931m. Vùng đá vôi: chạy từ phía Bắc dọc theo biên giới Việt - Trung, vòng xuống phía Đông Nam của tỉnh, tập trung chủ yếu ở các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Thông Nông, Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Uyên, Phục Hòa. Về địa thế, tỉnh Cao Bằng có độ dốc cao, đặc biệt là ở những nơi có nhiều núi đá, có tới 75% diện tích đất đai có độ dốc trên 250.

Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.703,42 km2; là cao nguyên đá vôi xen với đất, có độ cao trung bình trên 200m, vùng sát biên có độ cao từ 600 – 1.300 so với mặt nước biển. Núi rừng chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh, đất bằng để canh tác chỉ có gần 10%. Non nước Cao Bằng đậm đà bản sắc văn hoá các dân tộc.

Nhìn chung, tỉnh Cao Bằng có địa hình khá đa dạng, bị chia cắt bởi hệ thống sông, suối khá dày, núi đồi trùng điệp, thung lũng sâu,... và sự phức tạp của địa hình tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái đặc thù, cho phép Cao Bằng phát triển đa dạng cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, đặc điểm địa hình như vậy đã ảnh hưởng lớn đến việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, đặc biệt là giao thông, đồng thời đã tạo ra sự manh mún đất trong sản xuất nông nghiệp và dễ gây ra hiện tượng rửa trôi, xói mòn đất trong mùa mưa.

Khí hậu

Khí hậu Cao Bằng mang tính nhiệt đới gió mùa lục địa núi cao và có đặc trưng riêng so với các tỉnh miền núi khác thuộc vùng Đông Bắc. Có tiểu vùng có khí hậu á nhiệt đới. Cao Bằng là cửa ngõ đón gió mùa Đông Bắc từ Trung Quốc tràn sang vào mùa Đông và chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam vào mùa Hè.

Nhìn chung khí hậu Cao Bằng mát mẻ quanh năm lại có nhiều núi cao, phong cảnh thiên nhiên hữu tình nên rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi, du lịch.

Sông suối

Sông Bằng bắt nguồn từ núi Nà Vài cao 60m, cách Sóc Giang về phía Tây Bắc 10 km, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và nhập vào sông Tây Giang tại Long Châu ở độ cao 140m. Sông Bằng có diện tích lưu vực thuộc tỉnh Cao Bằng là 3.377 km2. Sông chảy qua địa phận tỉnh Cao Bằng dài 110 km với 4 phụ lưu là sông Dẻ Rào, Sông Hiến, sông Trà Lĩnh, sông Bắc Vọng; độ dốc lưu vực là 20% mật độ lưới là 0,91 km/km2, hệ số uốn khúc là 1,29. Sông Gâm chảy qua tỉnh Cao Bằng bắt đầu ở xã Khánh Xuân (huyện Bảo Lạc) và kết thúc ở thị trấn Pác Miầu (huyện Bảo Lâm), có diện tích lưu vực là 2006 km2 (kể cả phần sông Năng). Sông Quây Sơn: Bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua huyện Trùng Khánh và huyện Hạ Lang với chiều dài 38 km. Các sông, suối thuộc lưu vực lớn của sông Quây Sơn là sông Quây Sơn Tây, sông Quây Sơn Đông, suối Bản Viết, suối Na Vy và suối Gun. Các sông của tỉnh Cao Bằng có nhiều tiềm năng cho sử dụng mục đích thủy điện.

Tài nguyên 

- Tài nguyên đất: Tỉnh Cao Bằng có tổng diện tích tự nhiên 670.342,26 ha, quy mô diện tích ở mức trung bình so với các tỉnh khác trong toàn quốc. Tài nguyên đất đai tỉnh Cao Bằng được chia thành 10 nhóm chính: Nhóm đất phù sa diện tích 7.718 ha chiếm 1,06% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh; Nhóm đất lầy và than bùn diện tích khoảng 11ha: Nhóm đất đỏ vàng diện tích 408.563 ha chiếm 60,8%; Nhóm đất mùn trên núi cao diện tích 194 ha chiếm 0,03%; Nhóm đất cacbonat diện tích 6.322 ha chiếm 0,94%; Nhóm đất đen diện tích khoảng 127 ha chiếm 0,02%; Nhóm  đất mùn vàng đỏ trên núi diện tích khoảng 63.054 ha chiếm 9,38%: Đất xói mòn trơ sỏi đá diện tích 2.420 ha chiếm 0,36%. Nhìn chung tài nguyên đất tỉnh Cao Bằng khá đa dạng về nhóm đất và loại đất, đã tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái nông -lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng.

- Tài nguyên rừng: Theo số liệu thống kế năm 2013, diện tích đất lâm nghiệp tỉnh Cao Bằng 533.384,7 ha, chiếm 79,56% diện tích tự nhiên, chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng nghèo và rừng mới phục hồi. Rừng ở Cao Bằng có nhiều loại cây quý hiếm có giá trị kinh tế cao cũng như giá trị nghiên cứu khoa học, đã phát hiện được 27 loài thực vật quý hiếm ghi trong sách đỏ Việt Nam như cẩu ích, bổ cốt toái, dẻ tùng sọc trắng, hoàng đàn, thông pà cò, ngũ gia bì gai,... hệ thống vật rừng khá phong phú, theo kết quả điều cho thấy ở Cao Bằng có khoảng 196 loài, trong đó có một số loài quý hiếm như: Khỉ mặt đỏ, cu li lớn, vượn đen, voọc đen má trắng, cáo lửa, sói đỏ, gấu ngựa, rái cá, báo hoa mai, hươu xạ, sơn dương, tê tê, sóc bay...

- Tài nguyên nước: Tiềm năng nước mặt tỉnh Cao Bằng trung bình năm khoảng 10,5 tỷ m3, trong đó phần từ bên ngoài chảy vào là 5,4 tỷ (Trung Quốc chảy sang là 3,5 tỷ m3, sông Nho Quế chảy từ Hà Giang là 1,9 tỷ m3) và lượng dòng chảy trên tỉnh Cao Bằng đạt 5,1 tỷ m3. Nói chung tài nguyên nước của tỉnh Cao Bằng còn khá dồi dào, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

- Tài nguyên khoáng sản: Tỉnh Cao Bằng có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, với 199 điểm mỏ và điểm quặng với 22 loại khoáng sản khác nhau như sắt, mangan, chì, kẽm..., trong đó có những mỏ có quy mô lớn tập trung ở các huyện Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Nguyên Bình, Hạ Lang... Hiện nay, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2888/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2011, về việc phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2011 - 2015, có xét đến năm 2020 và đã cấp phép khai thác, chế biến một số loại khoáng sản. Công nghiệp khai khoáng trên địa bàn tỉnh còn rất nhiều tiềm năng.
2. Lịch sử phát triển
Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở vùng Đông Bắc, phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc), đường biên giới dài trên 333 km, phía Tây giáp 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, phía Nam giáp 2 tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Theo chiều Bắc – Nam 80 km (từ xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm đến xã Quang Trọng, huyện Thạch An). Theo chiều Đông – Tây 170 km (từ xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang đến xã Thạch Lâm, huyện Bảo Lâm).
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.703,42 km2; là cao nguyên đá vôi xen với đất, có độ cao trung bình trên 200m, vùng sát biên có độ cao từ 600 – 1.300 so với mặt nước biển. Núi rừng chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh, đất bằng để canh tác chỉ có gần 10%. Dân số hiện nay là 519.802 người. Non nước Cao Bằng  đậm đà bản sắc  văn hoá các dân tộc. Từ khi thành lập tỉnh đến nay đã trả qua những giai đoạn lịch sử hình thành và phát triển mang dấu ấn sâu sắc.
Thời kỳ phong kiến
Từ thời kỳ đầu dựng nước, vùng Cao Bằng đã có cư trú của người Việt cổ, minh chứng là qua các di chỉ khảo cổ, di tích đã được khai quật ở Hồng Việt, (Hòa An), Cần Yên (Thông Nông), Lũng Ỏ (Quảng Uyên)… cùng truyền thuyết về Pú Luông - Giả Cải, Cẩu chủa cheng vùa.
Địa danh Cao Bằng được chép trong sử sách từ rất sớm. Sách "Dư địa chí" do Nguyễn Trãi biên soạn năm 1435 đã ghi "Cao Bằng xưa là ngoại địa của bộ Vũ Định; Đông Bắc tiếp giáp Lưỡng Quảng; Tây Nam tiếp giáp Thái Nguyên, Lạng Sơn. Có 1 lộ, 4 châu, 273 làng xã. Đấy là nơi phên dậu thứ tư về phương Bắc vậy".
Sách "Việt kiệu thư" của Lý Văn Phượng (nhà Minh – Trung Quốc) viết năm 1540, mục "Châu quận diên cách" ghi tên các đạo, phủ, châu, huyện nước ta hồi đầu nhà Lê, có tên phủ Cao Bằng.
Thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497), vào năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đã chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên (Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn). Cao Bằng lúc đó gọi là phủ Bắc Bình thuộc thừa tuyên Thái Nguyên.
Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông cho định bản đồ của 12 thừa tuyên, trong nước có 49 phủ, 163 huyện, 50 châu. Đồng thời đổi tên 6 thừa tuyên. Thừa tuyên Thái Nguyên được đổi tên gọi là thừa tuyên Ninh Sóc.
Năm Hồng Đức thứ 3 (1472), Lê Thánh Tông đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, nước ta khi đó gồm 13 thừa tuyên, tổng cộng 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 36 phường. Phủ Cao Bằng thuộc thừa tuyên Ninh Sóc, phủ Cao Bằng có 4 châu:
Năm Hồng Đức thứ 4 (1473), thừa tuyên Ninh Sóc lại được đổi tên thành thừa tuyên Thái Nguyên, phủ Bắc Bình được đổi thành phủ Cao Bằng vẫn trực thuộc thừa tuyên Thái Nguyên.
Năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), đời vua Lê Hiến Tông, nhà vua đã tách một số thừa tuyên thành các trấn mới, tại các trấn đó đã thiết lập bộ máy mới có chức năng quản lý hành chính và có trách nhiệm với triều đình Trung ương như các đạo thừa tuyên. Thừa tuyên Thái Nguyên được tách thành trấn Thái Nguyên và trấn Cao Bằng, theo "Phương Đình địa chí" và "Đại Việt địa dư toàn biên" của Nguyễn Văn Siêu thì: Năm Cảnh thống thứ hai 1499 Cao Bằng được tách làm trấn riêng, sách ấy ghi rõ "Năm Cảnh Thống thứ 2 mới đặt riêng làm trấn Cao Bằng"; khi mới thành lập Cao Bằng gồm 1 phủ, 4 châu: phủ Cao Bình, châu Thái Nguyên (Thạch Lâm), châu Lộng Nguyên, châu Thượng Lang, châu Hạ Lang. Trấn lỵ đặt tại Hòa An.
Như vậy từ năm 1499, Cao Bằng được tách khỏi Thái Nguyên thành lập một trấn riêng không lệ thuộc vào Thái Nguyên như trước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Lần đầu tiên trong lịch sử, trấn Cao Bằng xuất hiện. Đó là một niên đại quan trọng, một bước ngoặt trong tiến trình lịch sử Cao Bằng, chứng tỏ vùng đất này đã phát triển đến mức trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền Trung ương. Từ khi tách, Cao Bằng có bộ máy riêng để quản lý lãnh thổ, bộ máy đó chịu sự quản lý điều hành của chính quyền nhà nước Trung ương (triều đình – nhà vua), bình đẳng với các trấn khác.
Đến thời nhà Mạc (1592 – 1677) lên Cao Bằng, đóng đô ở Cao Bình (nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng) đặt hiệu là Càn Thống, quản lý cả các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.
Năm 1677 – nhà Mạc mất, nhà Lê lại đặt trấn Cao Bằng. Trong "Đại Việt địa dư toàn biên" ghi rõ: "Đến năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677) nhà Mạc mất, nhà Lê lại đặt làm trấn Cao Bằng. Đặt trọng trấn để cai trị, trấn này có 1 phủ, 4 châu". Chuyển lỵ trấn về Cao Bằng.
Từ thời Lê Trung Hưng đến trước khi vua Minh Mệnh cải cách hành chính (1831 – 1832), thì cả nước đã hình thành các đơn vị hành chính mới. Theo sách "Tên làng xã Việt Nam đến đầu thế kỷ XIX" là một bộ địa danh hành chính đời Gia Long (1801 – 1820), trấn Cao Bằng gồm 4 châu, 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, trại, động.
Thời thuộc Pháp
Tháng 10/1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng.
Năm 1888, Cao Bằng là một quân khu. Quân khu Cao Bằng gồm Tiểu quân khu Cao Bằng và các đồn binh: Cao Bằng, Sóc Giang, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hoà, Nặm Nàng.
Thực dân Pháp đã phân chia địa bàn từ Thanh Hoá trở ra bắc thành 14 quân khu. Mỗi quân khu do một sĩ quan cấp đại tá hoặc cấp tướng trực tiếp chỉ huy.
Ngày 06/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ các quân khu và thiết lập các đạo quan binh. Đạo quan binh là đơn vị hành chính đặc biệt do giới quân sự nắm quyền cai trị. Mỗi đạo quan binh do một sĩ quan đứng đầu làm tư lệnh với đầy đủ quyền dân sự và quân sự, thời kỳ đầu về dân sự ngang với Thống sứ Bắc Kỳ.
Ngày 20/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tại Bắc Kỳ 4 đạo quan binh: Đạo quan binh 1 Phả Lại, Đạo quan binh 2 Lạng Sơn, Đạo quan binh 3 Yên Bái, Đạo quan binh 4 Sơn La. Đạo quan binh thứ 2 thủ phủ đặt tại Cao Bằng (Cao Bằng là tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh 2). Sau đó chuyển thành Đạo quan binh 2 Cao Bằng, đạo lỵ đặt tại Cao Bằng, gồm 3 tiểu quân khu: Cao Bằng, Bảo Lạc, Bắc Kạn.
Ngày 01/01/1906, Toàn quyền Đông Dương ra quyết định: "các Đạo quan binh 2, 3 và 4 được đặt lại, về phương diện tài chính dưới quyền của Thống sứ Bắc Kỳ và được cai trị theo luật lệ hiện hành tại các tỉnh dân sự. Việc cai trị các Đạo quan binh 2, 3 và 4 vẫn đặt dưới quyền một sĩ quan cao cấp cấp đại tá hoặc trung tá. Mỗi đạo quan binh được phân thành 2 hạt. Việc chia thành khu vực bị bãi bỏ".
Từ sau Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 16/4/1908, đạo quan binh chia thành các đơn vị hành chính và tư pháp ngang với công sứ các tỉnh dân sự.
Từ năm 1886 – 1945, tên gọi, địa giới và số lượng các đơn vị hành chính tỉnh Cao Bằng luôn có sự thay đổi. Cuối thế kỷ XIX, tỉnh Cao Bằng gồm có phủ Trùng Khánh (với 3 châu: Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên) và phủ Hòa An (với 3 châu: Thạch Lâm, Thạch An, Nguyên Bình).
 Năm 1926, theo sách "Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ", "Cao Bằng là Đạo quan binh thứ nhì" gồm 1 phủ: Hòa An (phủ lỵ ở Nước Hai); 7 châu: Hà Quảng, Thạch An, (châu lỵ ở Đông Khê), Nguyên Bình, Phục Hoà (châu lỵ ở Tà Lùng), Quảng Uyên, Thượng Lang (châu lỵ ở Trùng Khánh phủ) và Hạ Lang; 3 đại lý: Quảng Uyên, Nguyên Bình và Đông Khê.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cao Bằng cùng cả nước bước sang một giai đoạn lịch sử mới.
 Năm 1948, Chính phủ quyết định bãi bỏ cấp tổng, phủ, đạo, châu. Cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh nhất loạt gọi là huyện. Cao Bằng lúc đó gồm 11 huyện, thị: Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thạch An, Phục Hoà, Hạ Lang, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Trấn Biên và Thị xã Cao Bằng.
 Ngày 03/10/1950, Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
 Ngày 01/7/1956, Cao Bằng cùng các tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang hợp thành Khu tự trị Việt Bắc. Ngày 20/3/1958, huyện Trấn Biên được đổi tên thành huyện Trà Lĩnh. Ngày 7/4/1966, chia huyện Hà Quảng thành hai huyện là: Hà Quảng và Thông Nông. Ngày 8/3/1967, hợp nhất huyện Quảng Uyên và Phục Hoà thành huyện Quảng Hoà. Đến ngày 27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (khoá V) kỳ họp thứ 2 quyết nghị bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính. Quyết định tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hợp nhất thành một tỉnh là Cao Lạng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng.
 Ngày 29/12/1978, Nghị quyết Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 4 chia tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sáp nhập 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng.
 Ngày 06/01/1996, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn tách 2 huyện Ngân Sơn, Ba Bể của tỉnh Cao Bằng về tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Cao Bằng thời điểm này gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện, thị (1 thị xã, 10 huyện) và 189 xã, phường, thị trấn. Tổng diện tích tự nhiên là 6.724,72 km2.
 Ngày 25/9/2000, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 52/2000/NĐ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Bảo Lạc và thành lập huyện Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng.
 Ngày 13/12/2007, Chính phủ ra Nghị định số 183/2007/NĐ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện: Bảo Lạc, Thông Nông, Trùng Khánh, Phục Hoà thuộc tỉnh Cao Bằng.
Ngày 18/10/2010, thị xã Cao Bằng được Bộ trưởng Bộ Xây dựng ra Quyết định số 926/QĐ-BXD, công nhận là đô thị loại III.  Ngày 25/9/2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP, thành lập Thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng.
Như vậy, dù nhiều lần thay đổi tên gọi, điều chỉnh địa giới hành chính, song lãnh thổ Cao Bằng cơ bản vẫn ổn định. Hiện nay, Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện (01 thành phố và 12 huyện); 199 xã, phường, thị trấn (14 thị trấn, 4 phường, 181 xã); có 46 xã thị trấn biên giới, có 2 cửa khẩu quốc gia, 1 của khẩu quốc tế. 
 Thiên nhiên đã tạo cho Cao Bằng nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Thác Bản Giốc, động Ngao huyện Trùng Khánh; hồ Thang Hen huyện Trà Lĩnh... Cao Bằng là nơi có nhiều khu di tích lịch sử tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh giữ nước, bảo vệ nền độc lập tự do dân tộc như  hai di tích Quốc gia đặc biệt: Khu di tích lịch sử Pác Bó huyện Hà Quảng, Rừng Trần Hưng Đạo huyện Nguyên Bình; khu di tích Lam Sơn huyện Hoà An, di tích Đông Khê - Đức Long huyện Thạch An... gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

3. Các dân tộc

Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có người thuộc 28 dân tộc sinh sống. Trong đó có các dân tộc:
Dân tộc Tày 
Dân tộc Nùng
Dân tộc Dao
- Dân tộc Kinh (Việt)
Dân tộc Sán Chay
Dân tộc Lô Lô
Dân tộc Hoa
- Dân tộc Ngái
Theo caobang.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Huyện Kon Rẫy hoàn thành công tác xóa nhà tạm đầu tiên tại Kon Tum

Huyện Kon Rẫy hoàn thành công tác xóa nhà tạm đầu tiên tại Kon Tum

Thực hiện phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025”, tỉnh Kon Tum đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc giúp người dân, nhất là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn được sinh sống tại nơi ở mới, khang trang và sạch đẹp hơn. Trong đó, huyện Kon Rẫy (tỉnh Kon Tum) là một trong những địa phương nổi bật khi hoàn thành việc xóa 155 căn nhà tạm, dột nát trước thời hạn kế hoạch đề ra.

Kon Tum tiếp tục yêu cầu kiểm tra lại việc mã số vùng trồng cho sâm Ngọc Linh

Kon Tum tiếp tục yêu cầu kiểm tra lại việc mã số vùng trồng cho sâm Ngọc Linh

Liên quan đến những bất cập trong việc cấp mã vùng trồng sâm Ngọc Linh của Chi cục Nông nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum tiếp tục có văn bản yêu cầu Sở Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương kiểm tra, rà soát toàn bộ hồ sơ đề nghị, quy trình, trình tự cấp mã số vùng trồng đối với Công ty cổ phần Rượu sâm Ngọc Linh (số 2056/UBND-KTN ngày 6/6/2025).

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên: Bám tiến độ giữa mưa rừng, núi đá

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên: Bám tiến độ giữa mưa rừng, núi đá

Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn do thời tiết và địa hình hiểm trở, các đơn vị thi công thuộc dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên đang nỗ lực huy động tối đa nhân lực, thiết bị, linh hoạt tổ chức thi công để đảm bảo hoàn thành toàn tuyến trước ngày 19/8 theo chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng Chính phủ.

Mùa xuân ‘gõ cửa’ trên những mái ấm xứ Thanh

Mùa xuân ‘gõ cửa’ trên những mái ấm xứ Thanh

Trong những thôn xóm tại huyện Như Xuân (tỉnh Thanh Hóa), một ngày mới bắt đầu như bao miền quê yên bình khác. Nhưng phía sau khung cảnh quen thuộc ấy là những thay đổi tích cực trong đời sống gia đình và vị thế người phụ nữ.

Tạo sự đồng thuận trong xây dựng nông thôn mới

Tạo sự đồng thuận trong xây dựng nông thôn mới

Từ vùng quê với muôn vàn khó khăn, xã Bình Hòa Nam (huyện Đức Huệ, tỉnh Long An) đang từng bước chuyển mình trở thành xã nông thôn mới vào năm 2020, mục tiêu thành xã nông thôn mới nâng cao vào cuối năm 2025 với sự chung sức đồng lòng của người dân và những định hướng quyết liệt từ chính quyền.

Nhân rộng và phát huy hiệu quả nhiều mô hình bảo vệ môi trường

Nhân rộng và phát huy hiệu quả nhiều mô hình bảo vệ môi trường

Ngày 6/6, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Tuyên Quang tổ chức tổng kết thực hiện phong trào "Tuyên Quang chung tay xử lý rác thải và chống rác thải nhựa" giai đoạn 2021 - 2025 và sơ kết công tác MTTQ Việt Nam tham gia thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025.

An Giang: Hoàn thành sớm xóa nhà tạm, dột nát

An Giang: Hoàn thành sớm xóa nhà tạm, dột nát

Tính đến đầu tháng 6/2025, tất cả 11/11 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh An Giang đã cơ bản hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, dột nát, sớm hơn so với kế hoạch của Ban Chỉ đạo tỉnh.

Kon Tum: Phát sinh hơn 1.300 nhà tạm, dột nát cần xóa

Kon Tum: Phát sinh hơn 1.300 nhà tạm, dột nát cần xóa

Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kon Tum thông tin, đến đầu tháng 6/2025, công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát ở tỉnh đạt 97% trong tổng số hơn 2.700 hộ. Tuy nhiên, qua rà soát, các huyện, thành phố đã đề xuất phê duyệt bổ sung thêm 1.312 hộ có nhà tạm, nhà dột nát cần xóa.

Hàng loạt cầu treo dân sinh ở Gia Lai xuống cấp nghiêm trọng

Hàng loạt cầu treo dân sinh ở Gia Lai xuống cấp nghiêm trọng

Qua đợt kiểm tra toàn diện hệ thống cầu treo dân sinh theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng tỉnh Gia Lai đã phát hiện nhiều cây cầu xuống cấp nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông và tính mạng người dân.

Trao tặng nhà tình nghĩa cho người dân vùng khó Kon Tum

Trao tặng nhà tình nghĩa cho người dân vùng khó Kon Tum

Ngày 5/6, Công ty Điện lực Kon Tum phối hợp với chính quyền xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei tổ chức bàn giao 5 căn nhà tình nghĩa cho các hộ nghèo người đồng bào dân tộc thiểu số thôn Đăk Bối (xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum).

Mưa lũ gây thiệt hại hơn 30 ha cây trồng ở Yên Bái

Mưa lũ gây thiệt hại hơn 30 ha cây trồng ở Yên Bái

Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái, do chịu ảnh hưởng của rãnh áp thấp có trục qua Bắc Trung Bộ kết hợp với hội tụ gió trên 3.000 m, các khu vực trong tỉnh Yên Bái đêm ngày 4 và sáng 5/6 có mưa rào, mưa to và dông. Mưa lũ to gây thiệt hại hơn 30 ha diện tích nông nghiệp của người dân và một số công trình giao thông ở huyện Văn Yên.

Nghệ An: Mưa lớn gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16

Nghệ An: Mưa lớn gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16

Những ngày qua, khu vực các huyện miền núi biên giới Tương Dương, Kỳ Sơn của tỉnh Nghệ An có mưa to. Đặc biệt, vào các ngày 28, 29/5 và tối 4/6, mưa rất to đã gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16 khiến giao thông bị chia cắt hoàn toàn.

‘Thủ lĩnh của sự thay đổi’: Hành trình lớn từ những trái tim nhỏ

‘Thủ lĩnh của sự thay đổi’: Hành trình lớn từ những trái tim nhỏ

Giữa những ngọn núi phủ sương và những bản làng xa xôi, nơi con đường đến trường vẫn còn gập ghềnh đất đỏ, câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” như một tia sáng, mở ra hành trình mới cho những em nhỏ dân tộc thiểu số, học cách hiểu mình, hiểu người khác và mạnh dạn cất lên tiếng nói.

Bản vùng cao Yên Bái chờ điện lưới quốc gia

Bản vùng cao Yên Bái chờ điện lưới quốc gia

Nhiều năm nay, cuộc sống của người dân ở một số bản vùng cao Yên Bái chưa có điện lưới quốc gia gặp nhiều khó khăn. Niềm mong mỏi lớn nhất của bà con lúc này là Nhà nước, tỉnh Yên Bái sớm đầu tư, xây dựng công trình điện lưới, giúp người dân ổn định cuộc sống sinh hoạt, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội.

Dấu ấn xóa nhà tạm nơi biên giới

Dấu ấn xóa nhà tạm nơi biên giới

Hưởng ứng phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”, thời gian qua, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu đã triển khai hiệu quả phong trào hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo trên địa bàn các xã biên giới của tỉnh.

Xuyên đêm giải cứu 4 người dân bị mắc kẹt giữa dòng lũ ở rừng A Lưới

Xuyên đêm giải cứu 4 người dân bị mắc kẹt giữa dòng lũ ở rừng A Lưới

Ngày 5/6, lãnh đạo Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn Công an thành phố Huế thông tin, hàng chục cán bộ, chiến sĩ đơn vị cùng các phương tiện xuyên đêm 4/6 cứu hộ thành công bốn người dân bị mắc kẹt giữa dòng nước lũ chảy xiết trong rừng ở huyện miền núi, biên giới A Lưới.

Lâm Đồng có 6/9 địa phương hoàn thành xóa nhà tạm

Lâm Đồng có 6/9 địa phương hoàn thành xóa nhà tạm

Ngày 5/6, thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, tính đến hiện tại đã có 6/9 địa phương trong tỉnh hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và bàn giao cho người dân vào sử dụng.

Thiếu đường dẫn lên cầu, người dân vẫn phải qua sông bằng phà

Thiếu đường dẫn lên cầu, người dân vẫn phải qua sông bằng phà

Công trình Cầu vượt sông Krông Bông (thuộc Dự án Bố trí ổn định dân di cư tự do tại xã Vụ Bổn, huyện Krông Pắc) được khởi công từ tháng 5/2023 dự kiến hoàn thành trong tháng 12/2023. Công trình đã thi công hoàn thành hạng mục cầu với khối lượng thực hiện đạt khoảng 97% nhưng hơn một năm qua vẫn chưa có đường dẫn lên cầu. Do đó, hằng ngày người dân phải “vượt sông” bằng phà, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, nhất là trong mùa mưa lũ.