Đánh thức tiềm năng phát triển du lịch cao nguyên Sìn Hồ

Được mệnh danh là “Sa Pa thứ hai” của vùng Tây Bắc, Cao nguyên Sìn Hồ (Lai Châu) không chỉ hấp dẫn bởi khí hậu mát mẻ quanh năm và cảnh quan hùng vĩ, mà còn là nơi lưu giữ nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Mông, Dao. Những năm gần đây, xã Sìn Hồ đã và đang khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch gắn với bảo tồn thiên nhiên và bản sắc văn hóa, từng bước đưa du lịch trở thành hướng phát triển kinh tế bền vững của địa phương.

Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Dao
Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Mông

Có thể bạn quan tâm

Nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên không gian mạng

Nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên không gian mạng

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động ứng dụng không gian mạng trong công tác tuyên truyền, giúp chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến gần hơn với người dân, góp phần nâng cao nhận thức và lan tỏa những giá trị tích cực trong cộng đồng.

Nông nghiệp tuần hoàn gắn với du lịch trải nghiệm ở nông thôn

Nông nghiệp tuần hoàn gắn với du lịch trải nghiệm ở nông thôn

Khu bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải (xã Tân Cương, tỉnh Thái Nguyên) là một trong những điển hình về công tác bảo tồn di sản sống gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở vùng nông thôn Việt Nam. Đến đây, du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống vùng nông thôn tươi đẹp của văn hóa người Tày; trải nghiệm cuộc sống hằng ngày với các hoạt động như làm thuốc nam, nấu rượu, xay thóc, giã gạo, chơi đàn tính và các trò chơi dân gian…

Nhân rộng mô hình bản sáng vùng biên

Nhân rộng mô hình bản sáng vùng biên

Thời gian qua, Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thanh Hóa đã phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng mô hình “Bản sáng vùng biên”. Sau hơn 1 năm thực hiện, 11 bản khó khăn tại khu vực biên giới Thanh Hóa đã phát huy được nội lực, nhiều hộ dân vươn lên thoát nghèo.

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Lào ở Điện Biên

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Lào ở Điện Biên

Điện Biên là địa phương có đông đồng bào dân tộc Lào sinh sống, với những nét văn hóa đặc trưng được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Bằng tình yêu và niềm tự hào dân tộc, cộng đồng người Lào nơi đây vẫn đang bền bỉ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc.

Nỗi lo mất an toàn trên tuyến đường độc đạo liên bản có gần 200 điểm sạt lở

Nỗi lo mất an toàn trên tuyến đường độc đạo liên bản có gần 200 điểm sạt lở

Dù đã qua mùa mưa nhưng tuyến đường độc đạo liên bản, nối trung tâm xã Tủa Sín Chải với các bản Thành Chử, Tỉa Khí, Phi Én của tỉnh Lai Châu vẫn còn gần 200 điểm sạt lở lớn, nhỏ chưa được khắc phục. Điều này khiến hoạt động thường ngày của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Chống sạt lở, đảm bảo an toàn cho người dân vùng biên giới

Chống sạt lở, đảm bảo an toàn cho người dân vùng biên giới

Từ năm 2019, thôn Z’Lao thuộc xã Tây Giang đã được chính quyền tỉnh Quảng Nam cũ tổ chức tái định cư với điện, đường, trường, trạm kiên cố. Nhưng do là thôn có vị trí xa nhất xã, lại nằm cô lập bên bờ hồ thủy điện A Vương nên tuyến đường nối thôn với trung tâm xã rất quan trọng. Tuy nhiên, trong mùa mưa bão, trên tuyến đường này lại xuất hiện nhiều điểm sạt lở, gây nguy hiểm cho người dân khi đi lại, cũng như nguy cơ bị chia cắt.

Khơi lại mùa nước lành

Khơi lại mùa nước lành

Sau trận lũ lớn, hàng trăm hộ dân ở xã Tiên Lục (Bắc Ninh) rơi vào cảnh trắng tay, mất kế sinh nhai. Không chỉ hỗ trợ trước mắt, nhiều tổ chức, cá nhân đã chung tay khơi lại sinh kế bền vững giúp người dân vượt khó, từng bước làm chủ cuộc sống trên chính mảnh đất quê hương mình.

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Tháp Bà Pô Nagar

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Tháp Bà Pô Nagar

Tháp Bà Pô Nagar ở phường Bắc Nha Trang - một công trình mang đậm dấu ấn lịch sử, kiến trúc và tâm linh, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc Chăm - Việt. Nơi đây là điểm đến nổi tiếng thu hút hàng nghìn lượt du khách đến tham quan mỗi năm.

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Chủ động ứng phó triều cường, bảo vệ vùng chuyên canh sầu riêng

Trước tình hình triều cường diễn biến phức tạp, mực nước dâng cao hơn các năm trước, các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt ở các xã chuyên canh sầu riêng như Hiệp Đức, Mỹ Thiện… khẩn trương triển khai các biện pháp gia cố các đoạn đê thấp, yếu nhằm bảo vệ vườn cây ăn trái cũng như sinh mạng cùng tài sản người dân.

Sáng tạo 'Thông tin Biên cương số' phục vụ nhân dân

Sáng tạo 'Thông tin Biên cương số' phục vụ nhân dân

Thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tháng 4/2025, Đồn Biên phòng Bắc Xa, tỉnh Lạng Sơn đã sáng tạo triển khai mô hình “Thông tin biên cương số”. Đây không chỉ là giải pháp công nghệ mà còn thể hiện sáng tạo, chủ động của lực lượng biên phòng trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và giải quyết những khó khăn đặc thù của địa bàn miền núi biên giới.

Mưa lớn gây ảnh hưởng nặng tại Sơn La

Mưa lớn gây ảnh hưởng nặng tại Sơn La

Do ảnh hưởng của hoàn lưu áp thấp nhiệt đới suy yếu từ cơn bão số 11, từ sáng 6/10, trên địa bàn tỉnh Sơn La có mưa lớn gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân và giao thông đi lại của người dân...

'Kho vàng nghiến' và những người giữ rừng bằng trái tim

'Kho vàng nghiến' và những người giữ rừng bằng trái tim

Xóm Bo Trẳm (xã Ngổ Luông, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình trước đây) được bao bọc bởi một “tấm khiên xanh” khổng lồ, cùng núi đá tai mèo sừng sững của Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn-Ngổ Luông. Bức tranh thiên nhiên hùng vỹ ấy có quần thể 11 cây cây nghiến cổ thụ vững chãi, trầm mặc, trong số đó có những cây tuổi đời đã hàng nghìn năm và được công nhận là Cây di sản Việt Nam.

Thắp sáng ước mơ đến trường từ nguồn vốn chính sách

Thắp sáng ước mơ đến trường từ nguồn vốn chính sách

Ngày cầm trên tay tờ giấy báo trúng tuyển đại học cũng là ngày em Hoàng Thị Hải Yến ở xã Xuân Viên, tỉnh Phú Thọ đối mặt với bao trăn trở. Bố mẹ đi làm xa, bà nội là chỗ dựa tinh thần duy nhất…, gánh nặng học phí là nỗi lo đè nặng lên đôi vai cô học trò nhỏ và người bà đã già. Nhưng nhờ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng chính sách dành cho học sinh, sinh viên, Yến đã có thể tiếp tục theo đuổi ước mơ trở thành phiên dịch viên.

Sene Dolta - nét văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer

Sene Dolta - nét văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer

Trên địa bàn thành phố Cần Thơ, đồng bào Khmer đang rộn ràng đón lễ Sene Dolta. Đây là một trong những truyền thống tốt đẹp, mang tính nhân văn, giáo dục sâu sắc của đồng bào Khmer, góp phần vào sự đa dạng của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Lễ Sen Đôn Ta - nét đẹp văn hóa của đồng bào Khmer

Lễ Sen Đôn Ta - nét đẹp văn hóa của đồng bào Khmer

Lễ Sen Đôn Ta là mùa lễ truyền thống lớn trong năm của đồng bào Khmer Nam Bộ, thể hiện rõ nét về sự hiếu kính của con cháu đối với bậc sinh thành và tổ tiên, nhắc nhở mọi người nguồn cội. Đây là dịp để mọi người trong phum sóc, dòng tộc củng cố mối quan hệ gia đình, dòng tộc và cộng đồng; gắn bó giữa các thế hệ, duy trì các giá trị cộng đồng và tăng cường mối quan hệ đoàn kết.

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Ngày 20/9, tại sân đua bò xã Tri Tôn (Khu Liên hợp Thể thao - Du lịch Tà Pạ - Soài Chek), Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh An Giang phối hợp với Báo và Phát thanh - Truyền hình An Giang, UBND xã Tri Tôn tổ chức Hội đua bò Bảy Núi tranh cúp Truyền hình An Giang lần thứ 30, năm 2025. Đây là sự kiện văn hóa – thể thao đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer vùng Bảy Núi tỉnh An Giang vào dịp lễ Sen Đôn Ta (lễ cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.

Nâng cao chất lượng y tế cho đồng bào thiểu số

Nâng cao chất lượng y tế cho đồng bào thiểu số

Tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Điện Biên, nơi cuộc sống còn bộn bề khó khăn, chăm lo sức khỏe cho người dân luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Việc đảm bảo để mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, có chất lượng không chỉ là mục tiêu, mà còn là trách nhiệm và sự sẻ chia nhân văn.

Giữ gìn, phát triển thương hiệu làng nghề ươm tơ Cổ Chất

Giữ gìn, phát triển thương hiệu làng nghề ươm tơ Cổ Chất

Làng nghề ươm tơ Cổ Chất (xã Ninh Giang, tỉnh Ninh Bình) hình thành từ hàng trăm năm; được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thời kỳ thịnh vượng, cả làng có tới trên 90% số hộ theo nghề. Tuy nhiên, do cơ chế thị trường, sản phẩm làng nghề đang gặp nhiều khó khăn, cả làng hiện chỉ còn gần 30 hộ theo nghề.

Ý Đảng, lòng dân ở miền biên viễn Lai Châu

Ý Đảng, lòng dân ở miền biên viễn Lai Châu

Tẩn A Dài là người con của đồng bào Dao ở xã Tả Lèng, tỉnh Lai Châu. Sinh ra trong nghèo khó, bằng nghị lực và sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị, anh đã thoát nghèo, làm giàu và xây dựng thành công xưởng gạch, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, giải quyết việc làm cho nhiều lao động trong bản. Câu chuyện của A Dài không chỉ là minh chứng về nghị lực mà còn thể hiện hiệu quả từ những chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền đã thấm sâu, đồng hành cùng người dân trong hành trình thoát nghèo.

Giá dừa ở Vĩnh Long tăng cao

Giá dừa ở Vĩnh Long tăng cao

Từ đầu năm đến nay, giá dừa ở Vĩnh Long liên tục tăng và duy trì ở mức cao. Khoảng 1 tuần nay, giá dừa khô tiếp tục tăng thêm 20.000 đồng/chục (12 quả). Hiện dừa khô được thương lái thu mua tại vườn có giá từ 220.000 - 240.000 đồng/chục, cao hơn 100.000 đồng/chục so với đầu năm. Đây là mức giá cao nhất từ trước đến nay.

Bảo tàng cổ vật Mũi Né - Điểm đến độc đáo cho du khách

Bảo tàng cổ vật Mũi Né - Điểm đến độc đáo cho du khách

Giữa làng biển yên bình ở phường Mũi Né, tỉnh Lâm Đồng, có một không gian văn hóa rất đặc biệt, nơi lưu giữ hàng chục nghìn cổ vật gắn với chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là Bảo tàng cổ vật Mũi Né, do ông Nguyễn Ngọc Ẩn- một nhà sưu tầm cổ vật với niềm đam mê từ thuở nhỏ trực tiếp vận hành.

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Thực hiện Kế hoạch 100 ngày cao điểm triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số” của tỉnh Đắk Lắk, Tổ công nghệ số cộng đồng Buôn Alê B, phường Ea Kao đang hoạt động hết “công suất” để tuyên truyền đến từng bà con buôn làng về chủ trương chuyển đổi số và thực hành làm thủ tục hành chính trên môi trường số.

Độc lạ mô hình sưu tầm nông cụ Nam bộ ở Đồng Tháp

Độc lạ mô hình sưu tầm nông cụ Nam bộ ở Đồng Tháp

Nhằm giúp cho con cháu thế hệ sau hiểu được những vất vả của các thế hệ cha ông đi trước trong công cuộc đi khai hoang, sản xuất nông nghiệp, ông Cao Tấn Hiệu ở xã Bình Ninh, tỉnh Đồng Tháp đã dành thời gian sưu tập, lưu giữ hàng trăm nông cụ sản xuất nông nghiệp gắn bó với người nông dân.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là một trong những địa phương sở hữu di sản Thực hành Then, được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa Kinh Bắc, tiếng Then vang lên vừa mộc mạc vừa tha thiết; được cộng đồng nâng niu, gìn giữ và coi như một nét đẹp góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đa sắc màu nơi đây.