Giữa những triền đá xám trập trùng của Cao nguyên đá Đồng Văn, nơi lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên đỉnh Cột cờ, Lũng Cú hiện lên vừa hùng vĩ vừa thiêng liêng. Bình minh nơi địa đầu Tổ quốc bắt đầu bằng tiếng gà gáy vọng từ các bản làng, tiếng cười nói rộn rã của du khách hòa cùng âm thanh lao động nơi nương rẫy. Vùng đất này không chỉ là điểm cực Bắc trên bản đồ Việt Nam mà còn là biểu tượng của ý chí kiên cường, khát vọng vươn lên của đồng bào các dân tộc.

Ông Dương Ngọc Đức, Bí thư Đảng ủy xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang chia sẻ: “Lũng Cú hôm nay đã khác xưa rất nhiều, nhưng vẫn còn không ít gian nan. Chúng tôi xác định giữ vững chủ quyền biên giới và nâng cao đời sống nhân dân là hai nhiệm vụ song hành, xuyên suốt”. Đó cũng là quyết tâm của cả hệ thống chính trị và hơn 15.000 người dân nơi đây để viết tiếp câu chuyện mới trên mảnh đất thiêng liêng này.
Bền gan vượt khó, dựng xây biên cương

Từ trên Cột cờ có thể ngắm cảnh núi non trùng điệp, hùng vĩ nơi địa đầu Tổ quốc. Ảnh: Phương Lan/TTXVN
Lũng Cú được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba xã Lũng Cú, Lũng Táo và Ma Lé, với tổng diện tích hơn 95 km², có 37 thôn, trên 15.000 dân, gồm 12 dân tộc cùng sinh sống, trong đó người Mông chiếm tới 92,7%. Đây là địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh, với hơn 30 km đường biên giới và 36 mốc giới.
Xuất phát điểm của xã rất thấp, hạ tầng thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn chế. Đời sống người dân còn nhiều khó khăn: Thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt, điều kiện giao thông gian nan. Cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức 33,7%, hộ cận nghèo 14,7%... Một số hủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn tồn tại. Công tác quản lý đất đai, trật tự xây dựng đô thị còn hạn chế, nguy cơ tái nghèo cao.
Thế nhưng, trong khó khăn ấy, tinh thần đoàn kết, ý chí vươn lên của Đảng bộ và nhân dân đã được khơi dậy mạnh mẽ. Nhờ sự quan tâm đầu tư từ các chương trình mục tiêu quốc gia, giai đoạn 2020-2025, xã đã xóa được 280 nhà tạm, hoàn thành tái định cư cho 53 hộ dân ở những nơi có nguy cơ thiên tai. 100% thôn có đường bê tông đến trung tâm, 100% hộ dân có điện lưới quốc gia, 90% hộ dân có đủ nước sinh hoạt. Sáu trong 8 trường học đạt chuẩn quốc gia, không còn lớp ghép.
Du lịch bước đầu khởi sắc, với các điểm đến nổi bật như Cột cờ Quốc gia Lũng Cú, làng văn hóa du lịch cộng đồng Lô Lô Chải, làng văn hóa tiêu biểu Ma Lé. Hệ thống homestay, bungalow được đầu tư, doanh thu từ dịch vụ du lịch cả nhiệm kỳ đạt hơn 15 tỷ đồng, xã đón 780.000 lượt khách... Tuy nhiên, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa có sự kết nối bài bản.
Ông Trần Đức Chung, Chủ tịch UBND xã Lũng Cú, cho biết: “Dù còn nhiều khó khăn, nhưng sự đồng lòng của cán bộ và nhân dân chính là sức mạnh để Lũng Cú thay đổi từng ngày. Từ nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, chúng tôi đang từng bước chuyển sang kinh tế du lịch, dịch vụ, hướng tới một Lũng Cú phát triển bền vững”.
Bên cạnh phát triển kinh tế, công tác giữ gìn an ninh biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ luôn được chú trọng. Toàn bộ các thôn đã thành lập tổ bảo vệ an ninh trật tự cơ sở, quan hệ giao lưu hữu nghị với các địa phương giáp biên của Trung Quốc được duy trì, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hợp tác, phát triển.
Hướng tới trung tâm du lịch của Cao nguyên đá Đồng Văn

Đại hội Đảng bộ xã Lũng Cú lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025-2030 đã xác định mục tiêu: Đến năm 2030, Lũng Cú trở thành trung tâm du lịch của Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, thu hút 1 triệu lượt khách mỗi nhiệm kỳ và đến năm 2045 là xã phát triển khá của vùng lõi Cao nguyên đá Đồng Văn.
Để hiện thực hóa mục tiêu ấy, Đảng ủy xã Lũng Cú tập trung đột phá phát triển du lịch “Xanh - bản sắc - an toàn - thân thiện”. Trong đó, xã chú trọng đầu tư hạ tầng giao thông kết nối các điểm du lịch, xây dựng bãi đỗ xe, điểm ngắm cảnh, hệ thống biển chỉ dẫn hiện đại; khuyến khích người dân phát triển homestay, nhà nghỉ, khách sạn đạt chuẩn, đảm bảo vệ sinh và thân thiện môi trường.
Một loạt công trình trọng điểm sẽ được hoàn thành như cụm văn hóa tâm linh, Nhà cổ Há Súng, điểm dừng chân mũi Cực Bắc, làng du lịch cộng đồng Thèn Pả. Du lịch cộng đồng sẽ được nâng tầm với các sản phẩm trải nghiệm như dệt thổ cẩm, chế biến ẩm thực truyền thống, lễ hội dân gian, các chương trình văn nghệ đặc sắc.
Ông Sình Dỉ Gai, Trưởng thôn Lô Lô Chải, người tiên phong trong phát triển du lịch cộng đồng, bày tỏ: “Bà con mong muốn vừa bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Lô Lô, vừa phát triển du lịch để có cuộc sống tốt hơn. Khi du khách đến đây, họ không chỉ được tham quan mà còn hòa mình vào đời sống của người dân, cảm nhận sự chân thành, mộc mạc của vùng cực Bắc”.
Bên cạnh du lịch, Lũng Cú tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sạch, hình thành các vùng chuyên canh cây gừng, cây lê, lúa đặc sản; tăng cường chăn nuôi theo hướng hàng hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao giá trị sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích. Các làng nghề truyền thống như thêu, dệt, chế tác sản phẩm lưu niệm sẽ được bảo tồn và gắn với phát triển du lịch.
Lũng Cú cũng đặc biệt chú trọng công tác giảm nghèo bền vững. Mục tiêu đến năm 2030 giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 5 - 6% mỗi năm, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 35%, tỷ lệ dân cư sử dụng nước sinh hoạt đạt 95%; cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Cùng nhau viết tiếp câu chuyện đổi thay

Từ vùng đất nghèo khó, Lũng Cú đang từng bước vươn mình mạnh mẽ. Mỗi công trình, con đường, mỗi mái nhà mới dựng lên đều là minh chứng cho sự đổi thay. Đằng sau đó là ý chí, khát vọng của hàng nghìn người dân nơi đây - những người không cam chịu đói nghèo, luôn hướng tới tương lai tươi sáng.
Bí thư Đảng ủy xã Dương Ngọc Đức khẳng định: “Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của nhân dân. Đến năm 2030, Lũng Cú sẽ thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn, là trung tâm du lịch của Cao nguyên đá Đồng Văn”.
Trên đỉnh Cột cờ Lũng Cú, lá cờ đỏ sao vàng vẫn không ngừng tung bay, giữa trời biên viễn lộng gió, khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc và tiếp thêm sức mạnh cho những người con nơi địa đầu. Nhìn từ xa, màu cờ rực rỡ như soi sáng cả vùng núi đá xám trập trùng, như khơi dậy niềm tự hào và thôi thúc mỗi người dân nơi đây nỗ lực vươn lên.
Hôm nay, Lũng Cú không chỉ là nơi khởi đầu của non sông, nơi dấu chân người lữ khách dừng lại để ngước nhìn lá cờ Tổ quốc giữa lưng trời, mà còn là nơi khởi đầu của những ước mơ đổi thay. Mỗi con đường mới mở, mỗi ngôi nhà kiên cố mọc lên, mỗi nụ cười rạng rỡ của đồng bào các dân tộc chính là minh chứng sống động cho hành trình đi lên từ gian khó.
Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng, chung sức của nhân dân, vùng cực Bắc này đang viết tiếp câu chuyện mới về một Lũng Cú giàu bản sắc văn hóa, vững vàng nơi phên dậu Tổ quốc và khát vọng vươn mình hội nhập. Từ nơi địa đầu, khát vọng ấy sẽ lan tỏa, trở thành niềm tin, thành động lực để mảnh đất thiêng liêng này vững bước trên con đường phát triển, hòa nhịp cùng sự hưng thịnh của tỉnh Tuyên Quang và đất nước./.
Tên tự gọi: Lô Lô.
Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.
Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.
Dân số: 4.541 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.
Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.
Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.
Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.
Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Ở: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).
Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.
Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.
Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.
Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.
Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.
Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.
Thờ cúng: Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.
Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng Bảy...
Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.
Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.
Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.
Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.
Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.
Theo cema.gov.vn
