Nâng cao ‘quyền năng’ kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số

Từ những tổ tiết kiệm nhỏ trong cộng đồng đến các mô hình sinh kế hiệu quả, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu sốn tại các vùng miền trên cả nước đang từng bước chuyển đổi mạnh mẽ. Khi được hỗ trợ đúng lúc, đúng cách, chị em không chỉ cải thiện thu nhập, mà còn tự tin làm chủ cuộc sống, trở thành điểm tựa vững chắc cho gia đình và cộng đồng.

Nâng cao ‘quyền năng’ kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số

Hỗ trợ sinh kế thay thế “đói nghèo”

Quảng Nhâm là một xã biên giới thuộc huyện A Lưới (TP Huế), nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó có tới 49,67% là người Pa Cô (nhóm địa phương thuộc dân tộc Tà Ôi), 47,27% là người Tà Ôi, còn lại là các dân tộc anh em như Kinh, Cơ Tu, Bru-Vân Kiều, Mường, Ba Na, Gia Rai, Hoa... Cuộc sống nơi đây còn nhiều khó khăn, nhưng tinh thần nỗ lực vươn lên luôn hiện hữu trong từng gia đình, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS).

dt-3.jpg
Chị Hồ Thị Tanh (thứ ba), Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Quảng Nhâm (TP Huế)

Chị Hồ Thị Tanh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) xã Quảng Nhâm, chia sẻ: “Quảng Nhâm là một trong những xã được chọn thực hiện dự án 8 ‘Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết các vấn đề cấp thiết ở phụ nữ và trẻ em’, cùng với chương trình ‘Đồng hành cùng phụ nữ biên cương’. Thời gian qua, Hội đã phối hợp với Đồn Biên phòng Lâm Đớt tổ chức 28 buổi truyền thông cho người dân về Luật Biên giới quốc gia, công tác bảo vệ an ninh, quốc phòng. Đồng thời, triển khai hiệu quả gói hỗ trợ sinh kế trị giá 100 triệu đồng thông qua các mô hình trồng chuối, nuôi gà, thành lập tổ liên kết thu mua nông sản tại địa phương".

Trong hành trình đó, nhiều câu chuyện vươn lên của phụ nữ DTTS khiến chị Hồ Thị Tanh không khỏi xúc động. Điển hình là câu chuyện của chị Hồ Thị Lên (hội viên Chi hội Phụ nữ thôn Pi Ây 1, dân tộc Tà Ôi) với hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Dù cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, chồng hiện đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế, con còn nhỏ, nhưng chị Hồ Thị Lên luôn giữ vững tinh thần lạc quan. Sau khi được hỗ trợ từ chương trình, chị được trao tặng hai con dê giống để bắt đầu chăn nuôi chị đã bật khóc: “Từ ngày lập gia đình đến nay, vợ chồng tôi chưa từng có điều kiện chăn nuôi, làm kinh tế... Nhờ có sự quan tâm của Hội, tôi có cơ hội để thay đổi cuộc sống.”

Sau hai năm, hai con dê ban đầu đã sinh thêm năm con nhỏ. Chị bán được hai lứa dê, dành dụm mua thêm một con bò con để tiếp tục phát triển kinh tế. Vừa chăm sóc gia đình, vừa nỗ lực làm kinh tế, chị là minh chứng sống động cho nghị lực và sức mạnh nội tại của người phụ nữ DTTS khi được tiếp sức đúng lúc, đúng cách.

dt-4.jpg
Chị Võ Thị Mộng Khương, Chủ tịch Hội LHPN xã Ea Sô, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

Tại xã Ea Sô (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk), một trong những địa phương đặc biệt khó khăn với hơn 60% dân số là người Ê Đê, những mô hình sinh kế cộng đồng đang từng bước thay đổi cuộc sống của phụ nữ dân tộc thiểu số nơi đây.

Chị Võ Thị Mộng Khương, Chủ tịch Hội LHPN xã Ea Sô chia sẻ: “Năm 2023, nhận thấy cần có mô hình sinh kế để chị em có nơi trao đổi, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để các đoàn thể và chính quyền hỗ trợ kỹ thuật, tôi đã đề xuất với Hội Phụ nữ huyện, sau đó đề xuất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện để xin hỗ trợ hai mô hình sinh kế đầu tiên".

Khác với cách làm cũ hỗ trợ riêng lẻ từng hộ gia đình, chị Võ Thị Mộng Khương và các cộng sự quyết định thành lập các tổ sinh kế. Ban đầu có 10 chị em tham gia, đến nay đã tăng lên 20 người. Với nguồn vốn khởi điểm 45 triệu đồng, các tổ họp bàn, lựa chọn các hộ khó khăn nhất để được vay trước, từ đó xoay vòng giúp nhau phát triển. Mô hình nuôi bò sinh sản được lựa chọn vì phù hợp điều kiện thực tế tại địa phương, chi phí thấp, rủi ro ít và khả năng duy trì cao.

dt-6.jpg
Mô hình nuôi bò sinh sản của Hội LHPN xã Ea Sô (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk) đã góp phần hỗ trợ sinh kế giúp phụ nữ DTTS thoát nghèo.

“Nuôi bò ở đây không theo kiểu công nghiệp phải tốn tiền mua cám. Chị em tận dụng đất trồng cỏ, chăn thả tự nhiên, thu gom phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch… nên chi phí nuôi gần như không đáng kể. Khi giá bò xuống, họ vẫn có thể nuôi tiếp chứ không buộc phải bán lỗ. Khi giá lên, có thể bán bò mẹ, bò con, hoặc nhân giống thêm. Từ một con bò ban đầu, có hộ giờ đã có ba, bốn con. Đây là khoản tiết kiệm “sống”, chị em có thể dùng để xoay xở khi cần vốn làm ăn hay lo cho con cái ăn học”, chị Võ Thị Mộng Khương kể. So với nhiều mô hình khác đang triển khai, nuôi bò sinh sản được xem là hướng đi bền vững, bởi khả năng nhân rộng cao, ít rủi ro, tạo động lực để phụ nữ DTTS vươn lên thoát nghèo.

Tiếp cận vốn vay ưu đãi - mở rộng cơ hội phát triển

Tại xã Ea Sô (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk), những người phụ nữ DTTS đang từng bước đổi thay cuộc sống nhờ các mô hình tiết kiệm cộng đồng đầy hiệu quả, nhân văn. Không quản khó khăn, họ cùng nhau vun đắp niềm tin, sẻ chia và hỗ trợ nhau từng đồng vốn nhỏ để vươn lên thoát nghèo.

dtmn-1.jpg
Chị Võ Thị Mộng Khương tâm huyết với các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ bà con DTTS làm kinh tế.

Chị Võ Thị Mộng Khương, Chủ tịch Hội LHPN xã Ea Sô chia sẻ: “Dù đời sống còn nhiều thiếu thốn, nhưng chị em luôn đoàn kết, hỗ trợ nhau vượt khó. Từ các tổ tiết kiệm nhỏ ban đầu, đến nay xã đã có 16 tổ với tổng vốn lên đến 280 triệu đồng. Thay vì chia nhỏ số tiền như trước, cuối năm 2023, Hội Phụ nữ xã đã mạnh dạn thay đổi phương thức cho vay: Tăng mức hỗ trợ, cho vay, từ 5 triệu đồng trở lên, giúp hội viên đủ lực đầu tư các mô hình kinh tế bài bản hơn như trồng cây ăn trái, nuôi dê, nuôi bò. Tổ tiết kiệm không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn gieo lòng tin và sự sẻ chia giữa chị em phụ nữ. Đây là mô hình tiết kiệm rất nhân văn, cần được nhân rộng hơn nữa,” chị Võ Thị Mộng Khương bày tỏ.

Vấn đề tiếp cận vốn vay vẫn luôn là rào cản lớn đối với phụ nữ DTTS, nhất là tại các xã như Châu Tiến (huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An), nơi đông đồng bào dân tộc Thái sinh sống. Thiếu hiểu biết về thủ tục, e ngại rủi ro và không có tài sản đảm bảo khiến nhiều chị em ngần ngại tham gia các chương trình vay vốn chính thức... Thấu hiểu điều đó, Hội LHPN xã Châu Tiến đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ như: Tổ chức các buổi truyền thông chuyên đề, lồng ghép tư vấn vay vốn trong sinh hoạt chi hội, thành lập các câu lạc bộ “Phụ nữ tiết kiệm - tín dụng” để lan tỏa thói quen tài chính lành mạnh.

Đặc biệt, Hội đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện tổ chức tư vấn trực tiếp ngay tại bản, mời cán bộ ngân hàng xuống tận nơi hướng dẫn hồ sơ, giải đáp thắc mắc. Không dừng lại ở việc tiếp cận vốn, Hội còn hỗ trợ sau vay vốn: Mở lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt; hướng dẫn quản lý tài chính hộ; kết nối thị trường qua các phiên chợ “Phụ nữ khởi nghiệp” và hợp tác xã nông nghiệp địa phương. Những nỗ lực đó đã từng bước thay đổi nhận thức, tiếp sức cho phụ nữ dân tộc Thái ngày càng tự tin khởi nghiệp, vững vàng hơn trên hành trình phát triển kinh tế gia đình.

dt-5.jpg
Chuyên gia Đặng Đình Ngọc, cán bộ tổ chức CARE tại Việt Nam chia sẻ tại hội thảo tham vấn, góp ý hoàn thiện đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8.

Theo chuyên gia Đặng Đình Ngọc, cán bộ tổ chức CARE tại Việt Nam (tổ chức toàn cầu hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo), trong những năm qua, Trung ương Hội LHPN Việt Nam, các cơ quan Hội tại địa phương cơ sở đã hướng dẫn triển khai cũng như phối hợp với các tổ chức, dự án vận hành nhiều loại hình tương trợ lẫn nhau thông qua các phong trào tiết kiệm tại cộng đồng, dựa trên nòng cốt là các chi, tổ phụ nữ tại thôn bản. Trung bình, tại mỗi thôn có ít nhất 1 tổ nhóm tiết kiệm, có những địa phương có nhiều hơn 1 tổ để đảm bảo không để số thành viên, tổ quá lớn (tỉnh Hoà Bình, Bắc Kạn, Quản Trị...).

Trên cả nước hiện có hàng trăm nghìn tổ tiết kiệm đang hoạt động hiện hữu với quy mô vốn góp hàng nghìn tỷ. Các tổ nhóm này góp phần rất lớn vào sự chuyển biến tích cực về kinh tế cho chị em. Thành viên các nhóm Tiết kiệm vay vốn đồng thời cũng là thành viên của các mạng lưới Tài chính vi mô hoạt động trên địa bàn. Nhiều nhóm tại tỉnh Yên Bái, Hà Giang... bắt đầu có dư thừa nguồn lực tài chính và trưởng nhóm phải mang đi gửi tiết kiệm tại ngân hàng để mưu cầu sự an toàn hơn khi số lượng tích lũy định kỳ tăng lên ngày càng nhiều hơn trong khi nhu cầu vay vốn ít đi, do giới hạn khoản vay, lãi suất không còn sức hút so với rủi ro tiềm tàng. Có thể nói đây là những thành quả lớn và là xuất phát điểm tốt để đặt nền móng cho tiếp cận tài chính toàn diện trong dài hạn.

Tuy nhiên, chuyên gia Đặng Đình Ngọc nhận định, hiện vẫn tồn tại khoảng cách giữa các hình thức tiếp cận tài chính không chính thức và tài chính chính thức, do những hạn chế về năng lực tiếp cận và năng lực quản trị của người dân và các mô hình mang tính truyền thống này đóng vai trò trung gian hướng đến tài chính chính thức.

“Năng lực tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức của người dân hạn chế, chưa đáp ứng được các điều kiện của các tổ chức cung ứng dịch vụ. Các khoản vay của người dân phần nhiều là vay chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp với điều kiện đặc thù dành cho đối tượng chính sách. Tỷ lệ vay thương mại trong cộng đồng rất ít do người vay không có các tài sản đảm bảo hoặc không đủ khả năng hoàn thiện các bộ hồ sơ vay của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Khả năng quản trị vốn của người dân cho phát triển còn hạn chế, người dân có xu hướng vay khoản vốn nhỏ phù hợp với khả năng quản lý của họ để chi dùng cho các mục tiêu khác nhau trong đó đầu tư cho chăn nuôi, trồng trọt quy mô nhỏ vẫn chiếm tỉ lệ lớn”, ông Đặng Đình Ngọc chia sẻ.

d2.jpg
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các mục đích vay vốn của các thành viên trong nhóm Tương trợ vốn.

Các khảo sát gần đây của tổ chức CARE Việt Nam tại các tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Quảng Trị, Kon Tum, Trà Vinh, Cà Mau cho thấy, việc sử dụng vốn của chị em qua các nhóm tiết kiệm chủ yếu phục vụ phát triển sinh kế với quy mô vốn tương đối nhỏ (5 - 7 triệu đồng/ khoản). Theo số liệu của Hệ thống Nông dân số, trong 11.907 giao dịch hỗ trợ vốn của các thành viên trong 708 nhóm Tương trợ vốn, 76% các khoản hỗ trợ vốn là được dùng cho mục đích đầu tư, sản xuất (chăn nuôi gia quy mô nhỏ, đầu tư, mua sắm vật tư, tư liệu sản xuất…).

Tích lũy tiền mặt của người dân còn hạn chế, thu nhập từ kinh tế hộ vốn manh mún, phụ thuộc vào thời tiết, thương lái, thị trường địa phương hầu như chỉ đủ trang trải cho các nhu cầu hàng ngày; người dân có xu hướng tìm đến và dễ chấp nhận với các hình thức tích luỹ vốn mang tính cộng đồng truyền thống, phù hợp với nhu cầu và năng lực của họ. Đây là lý do cho sự tồn tại của nhiều mô hình tiết kiệm vay vốn, hụi, họ trong thời gian qua.

Trong phạm vi dự án 8 giai đoạn 2026 - 2030, ông Đặng Đình Ngọc đề xuất Trung ương Hội tiếp tục quan tâm: Nghiên cứu, cải tiến mô hình hoạt động của các tổ nhóm trên cơ sở các văn bản pháp lý hiện tại nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh của các mô hình tiết kiệm, tích lũy vốn hiện có song song với chuẩn bị năng lực cần thiết để các tổ nhóm họ bước vào giai đoạn bứt phá và có thể tự tích luỹ được năng lực tiếp cận tài chính chính thức và năng lực quản trị. Đồng thời, cần phân loại các nhóm theo năng lực tiếp cận (thường gắn với quy mô tiết kiệm) để có chiến lược hỗ trợ phù hợp. Cụ thể là nghiên cứu, chuyển đổi các nhóm từ mô hình hoạt động có rủi ro pháp lý cao hơn sang mô hình có độ an toàn pháp lý cao hơn: Đây là cách làm tiệm tiến, tăng dần độ khó để các nhóm có khả năng thích nghi cao hơn; kết nối các nhóm có năng lực tốt với hệ thống tài chính chính thức để họ có thể bước sang giai đoạn phát triển mới…

Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số - bước tiến mới

Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh,... Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa xác định, phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) cũng không đứng ngoài cuộc. Vì vậy, việc hỗ trợ 15 mô hình sinh kế, tổ hợp tác và hợp tác xã do phụ nữ làm chủ, ứng dụng công nghệ 4.0 là một bước đi cụ thể, có chiều sâu, hướng đến trao quyền kinh tế cho phụ nữ một cách bền vững.

Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa đã triển khai các hoạt động hỗ trợ mô hình sinh kế như: Đào tạo kỹ năng quản lý, kinh doanh, chuyển đổi số: Phụ nữ được tập huấn về ứng dụng mạng xã hội, sàn thương mại điện tử, livestream bán hàng, quản lý tài chính, xây dựng thương hiệu sản phẩm OCOP…; tổ chức các lớp đào tạo riêng cho phụ nữ DTTS ít tiếp xúc công nghệ, giúp họ làm quen với điện thoại thông minh, chụp ảnh, quay video sản phẩm.

Hội hỗ trợ chị em kết nối thị trường truyền thông sản phẩm, các hoạt động thiết kế bao bì, tem nhãn, câu chuyện sản phẩm, kết nối với các nhà phân phối, đưa hàng lên sàn thương mại điện tử Shopee, Postmart, sàn địa phương…; hỗ trợ đưa sản phẩm của phụ nữ tham gia các hội chợ trong và ngoài tỉnh, tạo điều kiện lan tỏa sản phẩm vùng cao ra thị trường. Cùng với đó tư vấn, tiếp cận vốn vay và chính sách khởi nghiệp: Kết nối với Ngân hàng Chính sách, Quỹ Hỗ trợ phụ nữ nghèo, Tổ chức tài chính vi mô Thanh Hóa... giúp chị em tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, hợp pháp; đồng hành tư vấn làm hồ sơ, kế hoạch kinh doanh, thủ tục pháp lý để thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã.

ttd-1-3269.jpg
Bà Bùi Thị Mai Hoan, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa tích cực triển khai với các hoạt động trong dự án 8.

Theo bà Bùi Thị Mai Hoan, đến nay, Hội đã triển khai 15 mô hình sinh kế ứng dụng công nghệ. Nhiều phụ nữ DTTS lần đầu tiên biết livestream bán hàng, mở tài khoản ngân hàng, quảng bá sản phẩm online để tăng thu nhập, thoát nghèo. Trong đó cũng có mô hình do phụ nữ làm chủ đã đạt chuẩn sản phẩm OCOP 3 sao, trở thành địa chỉ du lịch cộng đồng hấp dẫn.

“Các mô hình sinh kế do phụ nữ làm chủ không chỉ giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho gia đình, mà quan trọng hơn, góp phần thay đổi vai trò xã hội của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ vùng DTTS & MN. Phụ nữ từ chỗ “đứng sau”, nay đã bước ra làm chủ mô hình sản xuất, kinh doanh; tự tin hơn, có tiếng nói hơn trong gia đình và cộng đồng; có khả năng hướng dẫn, truyền cảm hứng lại cho những phụ nữ khác cùng vươn lên.

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khi đất nước đẩy mạnh chuyển đổi số, để “không ai bị bỏ lại phía sau”, phụ nữ vùng cao nên được tiếp cận công nghệ, đào tạo và hỗ trợ đúng cách… để họ có thể trở thành một lực lượng quan trọng, góp phần phát triển kinh tế xanh, nhân văn và bền vững”, bà Bùi Thị Mai Hoan bày tỏ.

Thời gian tới, Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa xác định việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện dự án 8 không chỉ là trách nhiệm, mà còn là động lực chiến lược để đồng hành cùng phụ nữ DTTS&MN bắt kịp với nhịp phát triển mới của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế tri thức và xã hội số đang diễn ra mạnh mẽ.

“Chúng tôi sẽ đẩy mạnh chuyển đổi số trong phụ nữ DTTS&MN, tiếp tục mở rộng các lớp tập huấn kỹ năng công nghệ thông tin cơ bản, kỹ năng sử dụng điện thoại thông minh, kỹ năng tiếp thị và bán hàng qua mạng xã hội, sàn thương mại điện tử. Qua đó, hỗ trợ chị em xây dựng thương hiệu cá nhân và thương hiệu sản phẩm gắn với chuyển đổi số như: Livestream bán hàng, quay video sản phẩm, tạo mã QR…

Bên cạnh đó, phát triển thêm các mô hình sinh kế bền vững gắn với điều kiện của địa phương như: Định hướng xây dựng thêm mô hình khởi nghiệp xanh, khởi nghiệp số, du lịch cộng đồng do phụ nữ làm chủ, có tính đặc trưng bản sắc dân tộc. Đồng thời, Hội cũng khuyến khích phụ nữ DTTS&MN tham gia xây dựng OCOP và các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ hàng hóa bền vững; tăng cường sự phối hợp, kết nối với các sở, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, tổ chức quốc tế để đưa các chương trình, công nghệ và nguồn lực về tận xã, bản. Đặc biệt, Hội sẽ tham mưu, đề xuất chính sách phù hợp với đặc thù của phụ nữ vùng DTTS&MN trong thời kỳ chuyển đổi số”, bà Bùi Thị Mai Hoan chia sẻ.

Trong giai đoạn I thực hiện dự án 8, huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La) được đánh giá là một trong những địa phương tại tỉnh Sơn La thực hiện tốt dự án 8. Thuận Châu là huyện miền núi, với trên 90% dân số là đồng bào DTTS; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều chiếm 18,16%, giao thông đi lại còn khó khăn; một số hủ tục, tập quán lạc hậu còn tồn tại; trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế. Vì vậy, trong những năm qua, Hội LHPN huyện đã xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng, mở ra nhiều cơ hội đổi mới về công tác Hội và hỗ trợ chị em dễ dàng trao đổi, tiếp thu những kiến thức, kinh nghiệm, mô hình hay trong phát triển kinh tế; vượt mọi định kiến, rào cản giới…

dt-2.jpg
Bà Lường Thanh Thủy, Chủ tịch Hội LHPN huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Bà Lường Thanh Thủy, Chủ tịch Hội LHPN huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La cho biết, hiện nay, trên địa bàn huyện Thuận Châu đang phát triển nhiều loại nông sản, đặc sản địa phương. Thời gian qua, Hội LHPN huyện phối hợp các đơn vị mở lớp tập huấn, khóa đào tạo các hộ kinh doanh, hợp tác xã do phụ nữ làm chủ, giúp chị em tiếp cận nhiều hình thức kinh doanh, giới thiệu sản phẩm, nông sản đến các khách hàng qua các phiên livestream và biết cách xây dựng, quản lý các trang website bán hàng (thay vì chỉ bán hàng tại chợ truyền thống như trước đây).

“Hội đã phối hợp các cơ quan, đơn vị đưa ra những hướng dẫn giúp bà con bảo quản, vận chuyển nông sản an toàn đến tay người tiêu dùng… Đặc biệt, triển khai các hoạt động hỗ trợ chị em ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số… Tín hiệu đáng mừng là hiện nay, nhiều chị em đã tận dụng các trang mạng xã hội để bán các sản phẩm tiêu dùng, nông sản, đặc sản của huyện Thuận Châu được chứng nhận OCOP. Từ đó, huyện đang hình thành nhiều mô hình phụ nữ dân tộc thiểu số khởi nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, nền tảng số trong quá trình quảng bá, giới thiệu sản phẩm, bước đầu tăng thu nhập”, bà Lường Thanh Thủy chia sẻ.

dt-1.jpg
Phụ nữ DTTS tại tỉnh Sơn La nâng cao quyền năng kinh tế thông qua hình thức livestream bán nông sản.

Theo Hội LHPN tỉnh Sơn La, tính đến tháng 4/2024, khoảng 3.000 hội viên, phụ nữ, trong đó, 30% hội viên, phụ nữ DTTS; 50% các chủ thể OCOP, được hỗ trợ kiến thức, kỹ năng tham gia, ứng dụng các nền tảng số, sàn thương mại điện tử và sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ kiến thức, kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh, giao dịch điện tử và sử dụng nền tảng xã hội trong hoạt động phát triển kinh tế và quản lý tài chính. Ngoài ra, từ năm 2023 Hội LHPN tỉnh cũng phối hợp với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, thanh toán triển khai việc thu nộp hội phí bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt trên internet, thiết bị di động…

Trong giai đoạn 2026 - 2030 thực hiện dự án 8, Hội LHPN tỉnh Sơn La tiếp tục đào tạo, truyền thông, hỗ trợ nâng cao quyền năng trong tiếp cận tài chính toàn diện, thúc đẩy giáo dục tài chính cho phụ nữ; hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ; hướng dẫn phụ nữ dân tộc thiểu số kỹ năng tiếp cận kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và hưởng lợi công bằng từ các hoạt động giảm thiểu phát thải, tiếp cận thị trường các bon. Bên cạnh đó là hỗ trợ phát triển mô hình sinh kế cho phụ nữ gắn với bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong đồng bào các DTTS; hỗ trợ phát triển sinh kế, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho các đối tượng yếu thế, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân của mua bán người, phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ nghèo đơn thân.

tintuc-1.jpg
Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội người khuyết tật Việt Nam.

Tại hội thảo tham vấn, góp ý hoàn thiện đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8 giai đoạn 2, bà Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội người khuyết tật Việt Nam chia sẻ, tại vùng DTTS&MN, phụ nữ gặp nhiều khó khăn, rào cản, thiếu cơ hội việc làm và phát triển kinh tế. Sinh kế tại miền núi chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông - lâm nghiệp, các công việc đòi hỏi sức khỏe và di chuyển nhiều, rất không phù hợp với nhiều dạng khuyết tật. Phụ nữ khuyết tật thường không có đất sản xuất hoặc không đứng tên sở hữu, nên khó tiếp cận các chương trình vay vốn hay hỗ trợ sinh kế từ nhà nước. Bên cạnh đó, rất ít mô hình việc làm linh hoạt tại nhà hoặc nhóm sản xuất phù hợp với năng lực của phụ nữ khuyết tật được triển khai một cách bền vững.

Để tăng cường sinh kế và việc làm phù hợp cho phụ nữ khuyết tật DTTS, bà Nguyễn Thị Lan Anh cho rằng, nên khuyến khích làm việc tại nhà hoặc trực tuyến như bán hàng online, xử lý đơn hàng. Cùng với đó, cần hỗ trợ chị em thuộc các loại hình khuyết tật khác nhau. Chẳng hạn, chị em khuyết tật vận động, gặp hạn chế di chuyển, khó làm việc lao động chân tay, Hội Phụ nữ nên thiết kế công việc tại nhà hoặc tại cơ sở tiếp cận; đào tạo bán hàng online; trợ giúp công nghệ hỗ trợ (bàn làm việc điều chỉnh độ cao...). Chị em khiếm thị, không tiếp cận được thông tin trực quan, khó tiếp cận công nghệ thường, các cấp Hội có thể thiết kế các chương trình hướng dẫn nghề xoa bóp, nhạc cụ truyền thống, đan lát; ứng dụng phần mềm đọc màn hình để dạy kỹ năng sử dụng máy tính; hỗ trợ thiết bị công nghệ tiếp cận (máy in chữ nổi, loa thông minh)...

Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh, việc tiếp tục đầu tư, hỗ trợ phụ nữ DTTS về sinh kế, tài chính và công nghệ là vô cùng cần thiết để “không ai bị bỏ lại phía sau”. Từ những mô hình thiết thực tại các xã biên giới, miền núi cho đến các tổ nhóm tiết kiệm vay vốn, câu chuyện về nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ DTTS là minh chứng cho sức mạnh nội tại và ý chí vượt khó, đồng thời là lời kêu gọi mạnh mẽ về sự quan tâm, hỗ trợ có hệ thống, đồng bộ từ các cấp, ngành và tổ chức xã hội. Chỉ khi được trao quyền, nguồn lực và cơ hội, phụ nữ DTTS mới thực sự phát huy được vai trò là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước.

Dự thảo nội dung đề xuất thực hiện Dự án 8, giai đoạn 2026 - 2030

Nội dung 2: Hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ vùng đồng bào DTTS&MN

- Đào tạo, truyền thông, hỗ trợ nâng cao quyền năng trong tiếp cận tài chính phụ nữ; hỗ trợ, hướng dẫn phụ nữ dân tộc thiểu số kỹ năng tiếp cận kinh tế số, toàn diện, thúc đẩy giáo dục tài chính cho phụ nữ.

- Hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ; hỗ trợ, hướng dẫn phụ nữ dân tộc thiểu số kỹ năng tiếp cận kinh tế số kinh tế tuần hoàn và hưởng lợi công bằng từ các hoạt động giảm thiểu phát thải, tiếp cận thị trường các bon.

- Hỗ trợ phát triển mô hình sinh kế cho phụ nữ gắn với bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong đồng bào các DTTS;

- Hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho các đối tượng yếu thế, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân của mua bán người, phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ nghèo đơn thân.

Báo Tin tức và Dân tộc

Có thể bạn quan tâm

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Nghệ nhân Triệu Thị Vui, 67 tuổi, ở xã Thuận Hòa (TP Cần Thơ), được biết đến như “người giữ lửa” của nghề vẽ tranh trên kiếng truyền thống, một nét nghệ thuật đặc trưng của văn hóa Khmer Nam Bộ. Qua từng nét vẽ tinh tế, bà tái hiện các tích Phật, mang giá trị nghệ thuật và đậm tính tâm linh, đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, góp phần gìn giữ sắc màu tranh kiếng Khmer đang ngày càng hiếm người theo loại tranh thủ công này.

Chăm lo sức khỏe cho người cao tuổi, tiếp sức đến trường cho học sinh dân tộc Khmer

Chăm lo sức khỏe cho người cao tuổi, tiếp sức đến trường cho học sinh dân tộc Khmer

Sáng 13/12, hướng đến chào mừng Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên thành phố Cần Thơ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, Thành đoàn Cần Thơ phối hợp cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Mỹ Tú tổ chức hoạt động khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí và tặng quà cho người dân, trẻ em tại địa phương.

Phẫu thuật miễn phí cho bệnh nhân ở Đắk Lắk và vùng lân cận

Phẫu thuật miễn phí cho bệnh nhân ở Đắk Lắk và vùng lân cận

Sáng 13/12, Trung tâm Bảo trợ xã hội và Trẻ em tỉnh Đắk Lắk (Sở Y tế) phối hợp với Tổ chức Phẫu thuật nụ cười Operation Smile Việt Nam và Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột tổ chức Chương trình khám và phẫu thuật miễn phí cho bệnh nhân trên địa bàn tỉnh và các vùng lân cận.

Xây dựng 650 căn nhà cho các hộ dân Đắk Lắk bị thiệt hại do thiên tai

Xây dựng 650 căn nhà cho các hộ dân Đắk Lắk bị thiệt hại do thiên tai

UBND tỉnh Đắk Lắk đã quyết định hỗ trợ xây mới và sửa chữa khẩn cấp 650 nhà dân bị sập, đổ, trôi hoặc hư hỏng do bão số 13 (Kalmaegi) và đợt mưa lớn từ ngày 15 - 20/11/2025. Tổng kinh phí dự kiến hơn 110 tỷ đồng (khoảng 170 triệu đồng/nhà), được huy động từ nguồn vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và Công an tỉnh Đắk Lắk.

Thay đổi tư duy làm nông nghiệp của đồng bào vùng cao

Thay đổi tư duy làm nông nghiệp của đồng bào vùng cao

Tỉnh Quảng Ngãi có khoảng 25% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số. Những năm gần đây, nhờ triển khai linh hoạt các Chương trình Mục tiêu Quốc gia, chính quyền địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ. Người dân được hỗ trợ đa chiều về nhà ở, cây con giống, vốn vay ưu đãi, tạo thêm điều kiện để vươn lên, cuộc sống vật chất lẫn tinh thần không ngừng phát triển, khởi sắc.

Lực lượng quân y Binh đoàn 15 thăm, khám sức khỏe cho các đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn và nhân dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, lũ lụt tại phường Quy Nhơn Đông (tỉnh Gia Lai). Ảnh: Quang Thái/TTXVN

Chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ an sinh cho người dân vùng lũ Gia Lai

Trong ngày 11-12/12, Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng) tổ chức chương trình khám bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc miễn phí và trao quà an sinh cho các đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn và nhân dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, lũ lụt tại phường Quy Nhơn Đông, tỉnh Gia Lai.

'Lợi kép' từ chủ trương giao, khoán bảo vệ rừng

'Lợi kép' từ chủ trương giao, khoán bảo vệ rừng

Giao rừng gắn với giao đất cho hộ gia đình, cộng đồng dân cư là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm mục đích đảm bảo toàn bộ diện tích rừng tự nhiên đều có chủ rừng cụ thể. Tại Quảng Ngãi, tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh đã thực hiện giao, khoán bảo vệ rừng cho khoảng hơn 5.600 hộ gia đình và 500 cộng đồng dân cư với tổng diện tích lên tới hơn 204.000 ha. Chính sách này đã và đang đem lại nhiều lợi ích thiết thực.

Đắk Lắk triển khai 'Chiến dịch Quang Trung' với tinh thần tổng lực, thần tốc

Đắk Lắk triển khai 'Chiến dịch Quang Trung' với tinh thần tổng lực, thần tốc

Triển khai “Chiến dịch Quang Trung” thần tốc xây dựng mới, sửa chữa nhà ở cho các hộ gia đình có nhà bị sập, đổ, trôi do bão số 13 và đợt mưa lũ lịch sử trong tháng 11 vừa qua, các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh Đắk Lắk cùng sự hỗ trợ của các lực lượng quân đội, công an… đang huy động tối đa nhân lực, vật lực, đẩy nhanh tiến độ thi công, đảm bảo chất lượng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Cao Bằng yêu cầu chi tiết hóa thông báo xả lũ, đẩy mạnh trồng rừng đầu nguồn

Cao Bằng yêu cầu chi tiết hóa thông báo xả lũ, đẩy mạnh trồng rừng đầu nguồn

Ngày 11/12, Kỳ họp thứ 38 HĐND tỉnh Cao Bằng khóa XVII, nhiệm kỳ 2021-2026 tiếp tục phiên chất vấn, trả lời chất vấn và bế mạc kỳ họp. Vấn đề về xả lũ của các thủy điện trong mùa mưa lũ, giải ngân vốn đầu tư cho các dự án, trồng rừng, hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi dịch tả châu Phi được nhiều đại biểu quan tâm.

Thực hiện Nghị quyết 72-NQ/TW: Niềm vui ở vùng biên viễn

Thực hiện Nghị quyết 72-NQ/TW: Niềm vui ở vùng biên viễn

Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đang được tỉnh Đồng Nai tích cực triển khai. Tại xã biên giới Hưng Phước, niềm vui, sự phấn khởi hiện rõ trên gương mặt của bà con dân tộc thiểu số khi các đoàn y tế tìm đến từng ấp để thăm khám sức khỏe.

Chăm lo phát triển vùng đồng bào dân tộc Khmer ở biên giới

Chăm lo phát triển vùng đồng bào dân tộc Khmer ở biên giới

Xã Tân Hòa, tỉnh Tây Ninh là địa bàn biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó người Khmer chiếm tỷ lệ lớn với gần 200 hộ, tập trung chủ yếu tại ấp Con Trăn. Những năm qua, đời sống của đồng bào từng bước được cải thiện nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng sự nỗ lực vươn lên của người dân.

Trao học bổng Vừ A Dính tiếp sức học sinh dân tộc thiểu số đến trường

Trao học bổng Vừ A Dính tiếp sức học sinh dân tộc thiểu số đến trường

Ngày 10/12, tại xã Càng Long, tỉnh Vĩnh Long, Quỹ học bổng Vừ A Dính và Câu lạc bộ “Vì Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu” phối hợp với Tỉnh Đoàn, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Long tổ chức trao học bổng năm học 2025 - 2026 cho học sinh dân tộc thiểu số, vùng biển đảo và con sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp Bộ đội Biên phòng tỉnh.

Xây dựng thương hiệu từ vùng quýt cổ Phú Thọ

Xây dựng thương hiệu từ vùng quýt cổ Phú Thọ

Đang vào chính vụ mùa thu hoạch quýt Nam Sơn, xã Vân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Từ vùng trồng quýt cổ, đến việc áp dụng mở rộng diện tích trồng cam canh, đang được chính quyền địa phương triển khai bài bản, khoa học. Qua đó, rà soát các cây đầu dòng chất lượng cao để nhân giống, áp dụng quy trình chăm sóc hữu cơ, sử dụng phân vi sinh nhằm khôi phục độ phì đất và nâng cao sức đề kháng cho cây.

Sinh kế nhỏ mở lối đổi thay vùng biên giới Gia Lai

Sinh kế nhỏ mở lối đổi thay vùng biên giới Gia Lai

Tại các xã biên giới của tỉnh Gia Lai, các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang mang lại chuyển biến rõ nét. Những hỗ trợ thiết thực như cây giống, vật nuôi, hướng dẫn kỹ thuật và vốn ưu đãi đã tạo điểm tựa để đồng bào cải thiện thu nhập, ổn định đời sống và từng bước vươn lên thoát nghèo.

Tiếp sức đồng bào vùng biên an cư, lạc nghiệp

Tiếp sức đồng bào vùng biên an cư, lạc nghiệp

Với quyết tâm cao và sự đồng lòng của cấp ủy, chính quyền, người dân, xã vùng cao biên giới Phong Thổ của tỉnh Lai Châu hướng đến mục tiêu mọi hộ dân trên địa bàn đều có nhà kiên cố để an cư, lạc nghiệp. Địa phương này đang khẩn trương triển khai xóa nhà tạm, dột nát đợt 2 để góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân vùng cao.

Đậm đà bản sắc Cơ Tu qua từng món ăn dân dã

Đậm đà bản sắc Cơ Tu qua từng món ăn dân dã

Đơn giản, không cầu kỳ trong cách chế biến, cũng không kén chọn nguyên liệu, ẩm thực của người Cơ Tu hiện diện như hơi thở tự nhiên của núi rừng, mộc mạc mà tinh tế, giản dị nhưng vẫn mang đậm dấu ấn văn hóa của đồng bào mình.

Đắk Lắk khẩn trương khôi phục sản xuất và nhà ở cho người dân

Đắk Lắk khẩn trương khôi phục sản xuất và nhà ở cho người dân

Các địa phương phía Đông tỉnh Đắk Lắk vừa trải qua đợt mưa lũ lịch sử vào giữa tháng 11 với thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Đến nay, các dịch vụ, hạ tầng thiết yếu đã được khôi phục, tỉnh Đắk Lắk tiếp tục khắc phục hậu quả thiên tai, đặc biệt sớm khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.

Tiếp thêm động lực cho học sinh, người dân khó khăn vùng biên giới Tây Nam

Tiếp thêm động lực cho học sinh, người dân khó khăn vùng biên giới Tây Nam

Chiều 9/12, Đồn Biên phòng Phú Mỹ (thuộc Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang) tổ chức gặp mặt, trao quà và học bổng cho học sinh thuộc chương trình “Nâng bước em tới trường - Con nuôi Đồn Biên phòng” và dự án “Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nâng bước em tới trường” trên địa bàn xã Giang Thành (tỉnh An Giang) và huyện Kampong Trach, tỉnh Kampot (Vương quốc Campuchia).

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở xứ Lạng

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở xứ Lạng

Chiều 9/12, tại Trường Trung học phổ thông chuyên Chu Văn An (phường Đông Kinh, tỉnh Lạng Sơn) đã diễn ra lễ phát động điểm “Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học”. Đây là trường đầu tiên tại Lạng Sơn được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn chọn triển khai mô hình này trên địa bàn tỉnh.