Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân, UBND tỉnh Lâm Đồng đang tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng đẩy nhanh tiến độ xây dựng, bàn giao nhà ở cho gia đình quân nhân khó khăn, đồng bào M’Nông.
Ngày 29/12, tại xã Long Sơn (Thành phố Hồ Chí Minh), Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức khánh thành và bàn giao “Nhà đồng đội” cho gia đình Thiếu tá quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Như Thành. Căn nhà do Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân phối hợp với Tổng công ty Quản lý Vốn Nhà nước (SCIC) hỗ trợ kinh phí xây dựng trên nền đất căn nhà cũ.
Tại lễ bàn giao nhà, Đại tá Lê Hồng Quang, Phó Chủ nhiệm Chính trị Vùng 2 Hải quân chia sẻ, lãnh đạo đơn vị luôn quan tâm đến đời sống cán bộ, chiến sĩ, giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống để an tâm công tác, tiếp tục cống hiến và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Đại tá Lê Hồng Quang, Phó Chủ nhiệm Chính trị Vùng 2 Hải quân, phát biểu tại Lễ bàn giao. Ảnh: TTXVN phát
Thiếu tá quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Như Thành hiện là Đội trưởng Đội chiếu phim thuộc Nhà văn hóa, Ban Tuyên huấn, Phòng Chính trị Vùng 2 Hải quân. Gia đình đồng chí Thành trước đây sinh sống trong căn nhà 60m² tại tổ 10, thôn 1, xã Long Sơn xây dựng từ năm 2010. Qua thời gian sử dụng, ngôi nhà đã xuống cấp trầm trọng, thường xuyên bị dột nát vào mùa mưa, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sinh hoạt của các thành viên trong gia đình.
Năm 2025, Vùng 2 Hải quân đã phối hợp với các doanh nghiệp, nhà hảo tâm và kêu gọi cán bộ, chiến sĩ trong toàn Vùng ủng hộ, hỗ trợ xây dựng và bàn giao 53 “Nhà đồng đội” cho quân nhân có hoàn cảnh khó khăn trong toàn lực lượng của Vùng với tổng kinh phí 3,6 tỉ đồng. Đây là hoạt động thường xuyên của đơn vị, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, tình đồng chí, đồng đội của cán bộ, chiến sĩ Vùng 2 Hải quân, để tiếp thêm động lực, niềm tin, giúp quân nhân vượt qua khó khăn, an tâm công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
* Ngày 29/12, lãnh đạo UBND xã Quảng Trực, tỉnh Lâm Đồng cho biết, đang phối hợp với các ngành chức năng và các hộ dân liên quan chuẩn bị điều kiện cần thiết để khởi công 60 căn nhà tại điểm dân cư liền kề chốt dân quân biên giới. Đây là điểm dân cư được cộng đồng người M’Nông tại bon Bu Nung, xã Quảng Trực mong mỏi, chờ đợi nhiều năm nay.
Tổng mức đầu tư xây dựng, hoàn thiện 60 căn nhà thuộc điểm dân cư biên giới bon Bu Nung là hơn 8,1 tỉ đồng. Mỗi căn nhà được hỗ trợ kinh phí xây dựng 100 triệu đồng và mỗi hộ dân thụ hưởng cũng được hỗ trợ bò sinh sản, tivi và một số vật dụng khác. Nguồn kinh phí do Bộ Tư lệnh Quân khu 7 hỗ trợ. Việc khởi công sẽ diễn ra đầu năm 2026, hoàn thành trong dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/2026).
UBND xã Quảng Trực thông tin, khu vực này đã được ngành chức năng tỉnh Đắk Nông (cũ) đầu tư tương đối hoàn thiện hạ tầng, bao gồm đường giao thông, điện sinh hoạt, hệ thống nước sạch và nhà văn hóa... Dự kiến, thời gian tới, nơi đây sẽ được đầu tư thêm một công trình thể dục, thể thao và hoàn thiện một số hạng mục cơ sở hạ tầng. UBND xã cũng đã hoàn thành việc phân lô, cắm mốc và giao đất cho 60 hộ dân; trong đó, lô nhỏ nhất có diện tích 284 m2, lô lớn nhất có diện tích 400m2.
Việc tái lập bon Bu Bung là mong mỏi của cộng đồng người M'Nông vì bon cũ hiện có hơn 100 căn nhà và khá chật chội, nhiều căn nhà có 3 thế hệ cùng sinh sống. Bên cạnh nguồn hỗ trợ từ Bộ Tư lệnh Quân khu 7, UBND xã Quảng Trực cũng vận động thêm nhiều nguồn hỗ trợ kinh phí, nhân lực, vật lực tại chỗ để xây dựng các căn nhà, giúp cộng đồng dân cư nơi đây ổn định cuộc sống./.
Tên tự gọi: Mnông.
Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...
Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.
Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.
Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.
Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.
Ở: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.
Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.
Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.
Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.
Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.
Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.
Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.
Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.
Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.
Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...
Theo cema.gov.vn