Xuất khẩu quả - rau - hoa giải pháp thoát nghèo cho khu vực nông thôn, miền núi

Xuất khẩu quả - rau - hoa giải pháp thoát nghèo cho khu vực nông thôn, miền núi
Công ty TNHH sản xuất chế biến nông sản Cát Tường (Tiền Giang) đẩy mạnh xuất khẩu thanh long. Ảnh: Minh Trí - TTXVN
Công ty TNHH sản xuất chế biến nông sản Cát Tường (Tiền Giang) đẩy mạnh xuất khẩu thanh long. Ảnh: Minh Trí - TTXVN

Chín tháng đầu năm 2017, xuất khẩu quả - rau - hoa đạt 2,62 tỷ USD, lớn hơn 2,2 tỷ USD của xuất khẩu dầu thô và 2,04 tỷ USD của xuất khẩu gạo. Như vậy, quả - rau - hoa đã trở thành một lợi thế cạnh tranh xuất khẩu quốc tế của Việt Nam.

Dự báo giá trị xuất khẩu quả - rau - hoa năm 2018 sẽ vượt giá trị xuất khẩu gạo thời điểm cao nhất (3,67 tỷ USD năm 2012) và trước năm 2025 sẽ vượt mốc 10 tỷ USD/năm - giá trị xuất khẩu dầu thô cao nhất của nước ta (10,4 tỷ USD năm 2008). Những con số trên đây phản ánh nhu cầu quả - rau - hoa trên thế giới và các sản phẩm này của Việt Nam còn tiềm năng phát triển rất lớn, được khách hàng yêu thích, lựa chọn, đồng thời mở ra một hướng thoát nghèo và từng bước làm giàu cho nông dân khu vực nông thôn - miền núi.

Cần tìm lời giải mới cho bài toán thu hẹp chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn, miền núi

Thu nhập của phần lớn người nông dân sinh sống ở khu vực nông thôn, miền núi nước ta thấp hơn khá xa so với khu vực thành thị và việc thu hẹp khoảng cách giữa hai vùng nếu giữ cách làm như hiện nay thì sẽ còn kéo dài rất lâu. Năm 1999 thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn là 225.000 đồng/người, bằng 44% thu nhập bình quân đầu người ở thành thị là 516.000 đồng/người. Ðến năm 2016 là 2,44 triệu đồng/người, bằng 55,8% thu nhập đầu người ở thành thị (4,4 triệu đồng/người). Thu nhập đầu người vùng trung du - miền núi phía bắc năm 1999 là 210.000 đồng/người, bằng 41% khu vực thành thị, đến năm 2016 là 2,03 triệu đồng/người, bằng 44,6% thu nhập thành thị. Như vậy, qua 17 năm (1999 - 2016), khoảng cách thu nhập đầu người của nông thôn so với thành thị bình quân giảm 0,72%/năm và giữa trung du - miền núi phía bắc so với thành thị giảm 0,34%/năm.
 
Dây chuyền chế biến hạt điều xuất khẩu. Ảnh: Danh Lam - TTXVN
 Dây chuyền chế biến hạt điều xuất khẩu. Ảnh: Danh Lam - TTXVN

Thông tin từ cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 do Tổng cục Thống kê thực hiện cho thấy điều kiện sống của một bộ phận người dân ở khu vực nông thôn còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, nhất là dân cư vùng núi. Năm 2016, khu vực nông thôn còn 124.800 hộ chưa sử dụng điện, chiếm 0,8% tổng số hộ; 1,2 triệu hộ chưa có ti-vi, chiếm 7,5% tổng số hộ; tỷ lệ hộ không có nhà tắm chiếm 8,4%; tỷ lệ người dân chưa có bảo hiểm y tế là 23,6% dân số. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến hết năm 2016, theo các tiêu chí chuẩn nghèo đa chiều thì tỷ lệ hộ nghèo của cả nước còn khoảng 9,9%, cận nghèo còn 5,22%, có những huyện hộ nghèo chiếm tỷ lệ hơn 70% và đáng chú ý con số 86% hộ nghèo là nghèo về thu nhập.

Nếu tốc độ thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị trong thời gian tới như bình quân 17 năm vừa qua (0,72%/năm) thì để thu nhập nông thôn bằng 2/3 của thành thị sẽ cần 15 năm nữa (năm 2031), còn để đạt được 80% thu nhập thành thị thì cần 33 năm nữa (năm 2049). Nếu tốc độ thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa trung du - miền núi phía bắc và thành thị sắp tới như bình quân 17 năm qua (0,34%/năm) thì để thu nhập vùng này bằng 2/3 của thành thị sẽ cần 59 năm nữa (năm 2075).

Những tính toán giả định này cho thấy, để tăng thu nhập nhanh hơn cho người dân ở nông thôn - miền núi, cần tìm kiếm các giải pháp mới hiệu quả hơn để phát triển sản xuất ở khu vực này. Xét trên quy mô quốc gia, hơn 30 năm qua, phát triển công nghiệp và dịch vụ là con đường chủ yếu để tăng quy mô nền kinh tế (GDP), là xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Việc sau 30 năm đổi mới, thu nhập vùng nông thôn vẫn chỉ bằng 55,8% thu nhập thành thị, vùng trung du - miền núi phía bắc chỉ bằng 46,5% thu nhập thành thị và nếu không có các giải pháp mới, đột phá thì phải mất 10-15 năm nữa thì thu nhập nông thôn mới bằng 2/3 thu nhập thành thị và đối với vùng trung du - miền núi phía bắc phải hàng chục năm nữa thì việc tìm con đường mới để nâng cao đáng kể năng suất, thu nhập cho sản xuất nông nghiệp là yếu tố quyết định, bởi tài nguyên lớn nhất của nông thôn miền núi là các tài nguyên để phát triển nông nghiệp.

Việc phát triển các khu công nghiệp mới ở các tỉnh do nhiều lý do chưa thể diễn ra nhanh chóng, còn với các tỉnh miền núi hầu như không đáng kể vì các địa phương này rất thiếu đất để làm khu công nghiệp và điều kiện giao thông hạn chế làm cho việc thành lập các khu công nghiệp ở miền núi càng khó khăn. Vì vậy, thoát nghèo bằng phát triển nông nghiệp thu nhập cao phải là con đường chủ yếu cho vài chục năm tới.

Ba câu hỏi: trồng cây gì, nuôi con gì, bán cho thị trường nào và tổ chức sản xuất như thế nào vẫn là nền tảng để người nông dân có thu nhập cao hơn và nông nghiệp phát triển bền vững hơn. Thực tiễn đang chỉ ra nhóm sản phẩm mới có tiềm năng đột phá xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân: xuất khẩu quả - rau - hoa đã vượt qua xuất khẩu dầu thô và gạo.

Chính phủ đã có chương trình phát triển sản phẩm quốc gia giai đoạn 2010-2020, trong đó đã xác định 6 sản phẩm nông nghiệp quốc gia để đầu tư phát triển đồng bộ từ khâu làm giống, công nghệ nuôi trồng, chế biến, đến thương mại hóa sản phẩm trong nước và nước ngoài, đó là: lúa gạo năng suất, chất lượng cao; cá da trơn chất lượng cao và sản phẩm chế biến từ cá da trơn; các sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu; tôm nước lợ (tôm sú và tôm thẻ chân trắng); cà-phê chất lượng cao; sâm Việt Nam.

Năm 2016, giá trị xuất khẩu gạo đạt 2,16 tỷ USD (cao nhất 3,67 tỷ USD năm 2012); cá da trơn: 1,66 tỷ USD; tôm 3,15 tỷ USD; cà-phê: 3,334 tỷ USD (cao nhất 3,67 tỷ USD năm 2012).

Nhóm sản phẩm quả - rau - hoa chưa được chọn là sản phẩm quốc gia, song kết quả xuất khẩu năm 2016 là 2,457 tỷ USD vượt qua giá trị xuất khẩu dầu thô 2,4 tỷ USD và hơn cả giá trị sản phẩm quốc gia là gạo (2,16 tỷ USD) là một sự kiện đặc biệt của nông nghiệp Việt Nam và đặt ra câu hỏi: sự phát triển vượt bậc của sản xuất và xuất khẩu quả - rau - hoa có tính ổn định lâu dài hay chỉ nhất thời, đây có phải là một thời cơ mới trong hội nhập quốc tế của Việt Nam không? Có là một cơ hội đặc biệt để nâng cao thu nhập cho nông dân ở nông thôn và miền núi không?

Năm 2005, xuất khẩu quả - rau - hoa là 235 triệu USD, chỉ bằng 17% xuất khẩu gạo (1,4 tỷ USD), 9% xuất khẩu thủy sản (2,73 tỷ USD) và chỉ bằng 3% xuất khẩu dầu thô (7,3 tỷ USD). Năm 2010, xuất khẩu quả - rau - hoa là 460 triệu USD và năm 2016 đã đạt 2,457 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu quả - rau - hoa bình quân từ năm 2011 đến 2016 là 32%/năm.

Ðối với mặt hàng gạo là sản phẩm quốc gia, xuất khẩu năm 2011 là 3,66 tỷ USD, đạt mốc cao nhất 3,674 tỷ USD năm 2012, sau đó giảm: 2,92 tỷ USD năm 2013; 2,93 tỷ USD năm 2014, 2,8 tỷ USD năm 2015 và 2,16 tỷ USD năm 2016. Như vậy sau 5 năm, giá trị xuất khẩu gạo giảm 1,5 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu gạo bình quân 2011-2016 là 3,02 tỷ USD/năm. Với sản phẩm quốc gia cà-phê, xuất khẩu năm 2011 là 2,76 tỷ USD, đạt mốc cao nhất 3,674 tỷ USD năm 2012, sau đó biến động mạnh qua các năm: 2,7 tỷ USD năm 2013; 3,56 tỷ USD năm 2014; 2,67 tỷ USD năm 2015 và 3,33 tỷ USD năm 2016. Giá trị xuất khẩu cà-phê bình quân giai đoạn 2011-2016 là 3,12 tỷ USD/năm. Với mặt hàng thủy sản, trong đó nòng cốt là hai sản phẩm quốc gia là cá da trơn và tôm, giá trị xuất khẩu năm 2011 là 6,11 tỷ USD, đạt mức cao nhất 7,82 tỷ USD năm 2014, giảm xuống 6,57 tỷ USD năm 2015 và 7,05 tỷ USD năm 2016. Như vậy, sau 5 năm giá trị xuất khẩu thủy sản tăng: 940 triệu USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân gần 4%/năm, bình quân xuất khẩu giai đoạn 2011-2016 là 6,72 tỷ USD/năm.

Xuất khẩu dầu thô năm 2011 là 7,2 tỷ USD, năm 2012 là 8,2 tỷ USD, sau đó giảm liên tục: 7,2 tỷ USD năm 2013 và 2014; 3,8 tỷ USD năm 2015 và 2,4 tỷ USD năm 2016. Sau 5 năm, giá trị xuất khẩu dầu thô giảm 4,8 tỷ USD, bình quân xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2011-2016 là 6,02 tỷ USD/năm.

Từ các phân tích trên có thể dự báo giai đoạn 2017 - 2025: Xuất khẩu gạo ở xu thế trì trệ, năm 2016 chỉ đạt 2,16 tỷ USD/năm, đến 2025 nếu có phục hồi, giá trị xuất khẩu dự báo cũng chỉ ở mức 3 đến 4 tỷ USD. Xuất khẩu cà-phê ở xu thế ổn định, năm 2016 đạt 3,33 tỷ USD, đến 2025 nếu có tăng trưởng ổn định hơn thì cũng chỉ ở mức 3,5 đến 4 tỷ USD. Xuất khẩu thủy sản ở xu thế gia tăng, khoảng 5%/năm, năm 2016 đạt 7,05 tỷ USD, đến năm 2025 nếu không có giải pháp đột phá mới thì sẽ đạt khoảng 11 tỷ USD. Xuất khẩu dầu thô ở xu thế giảm và tăng chậm, năm 2016 đạt 2,4 tỷ USD, đến năm 2025 dự báo sẽ đạt 4 đến 5 tỷ USD.

Trong bối cảnh trên, tiềm năng xuất khẩu quả - rau - hoa là vượt trội, rất đáng quan tâm hỗ trợ và phát huy. Tốc độ tăng xuất khẩu quả - rau - hoa từ 2011-2016 là 32%/năm, giá trị xuất khẩu 2016 là 2,457 tỷ USD. Các thị trường lớn của quả - rau - hoa của Việt Nam là: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, UAE, Liên minh châu Âu. Nếu dự báo thận trọng, xuất khẩu quả - rau - hoa giả định 2017-2020 tăng 25%/năm và giai đoạn 2011-2025 là 18%/năm thì giá trị xuất khẩu quả - rau - hoa năm 2020 là 6 tỷ USD và năm 2025 là 13 tỷ USD, lớn hơn dự báo xuất khẩu thủy sản thời điểm này là 11 tỷ USD, gấp nhiều lần giá trị xuất khẩu gạo, cà-phê và dầu thô.

Từ các phân tích trên có thể thấy: quả - rau - hoa hoàn toàn có tiềm năng trở thành sản phẩm xuất khẩu lớn hơn các sản phẩm quốc gia như gạo, cà-phê, thủy sản và dầu thô. Thực tế này mở ra triển vọng to lớn để nâng cao thu nhập cho nông dân ở nông thôn, nhất là miền núi.

Cần cổ vũ, hỗ trợ và chắp cánh cho xuất khẩu quả - rau - hoa, Việt Nam vươn tới mục tiêu 10 đến 15 tỷ USD vào năm 2025

Ðể biến thời cơ, tiềm năng quả - rau - hoa trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong 10 năm tới, nâng cao thu nhập đáng kể cho nông dân ở nông thôn và miền núi, chúng tôi đề xuất hai giải pháp chủ yếu:

Một là, đưa nhóm sản phẩm quả - rau - hoa vào chương trình phát triển sản phẩm quốc gia 2017-2020 và sau đó, để có các giải pháp đồng bộ, khoa học, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất, tối ưu hóa quy trình sản xuất, cung cấp giống có chất lượng cao, tiếp thị quốc tế, xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống phân phối.

Hai là, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm sản xuất và tiêu thụ các loại quả, rau và hoa chủ yếu đã xuất khẩu thành công thời gian qua cần phổ biến rộng rãi các mô hình hợp tác xã kiểu mới trồng các loại quả, rau và hoa để hợp tác xã kiểu mới trở thành mô hình chủ đạo hỗ trợ và liên kết nông dân trồng các loại quả, rau và hoa xuất khẩu, liên kết với các doanh nghiệp trong việc cung ứng đầu vào (giống chất lượng cao, phân bón, thiết bị phục vụ tưới, làm đất, thu hoạch thông minh) và tiêu thụ sản phẩm (kho bảo quản, đóng gói, vận chuyển, tiêu thụ) và vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất.

Ðược biết, tỉnh Sơn La hiện có hơn 37.000 ha cây ăn quả, sản lượng đạt gần 200.000 tấn/năm và 10.000 ha trồng rau. Từ năm 2016 đã quy hoạch, phát triển 323 vùng cây ăn quả an toàn với diện tích hơn 8.200 ha, sản lượng 52.000 tấn/năm và 1.700 ha rau sạch với sản lượng 27.000 tấn/năm. Các hợp tác xã kiểu mới là mô hình chủ yếu để phát triển các vùng cây ăn quả và rau sạch. Năm 2017, lần đầu tiên mặt hàng quả an toàn và rau sạch của Sơn La đã xuất khẩu vào Ô-xtrây-li-a và Trung Quốc.

Tỉnh Lào Cai quy hoạch hơn 400 ha trồng cây ăn quả và rau ứng dụng công nghệ cao, với giá trị bán sản phẩm hơn 200 triệu đồng/ha/năm và 8.000 ha sản xuất nông nghiệp hướng tới ứng dụng công nghệ cao. Nhờ đó, thu nhập của người nông dân đã được cải thiện đáng kể.

Tỉnh Bắc Giang có 30.000 ha vải thiều, chủ yếu trồng trên đồi và chung quanh nhà của nông dân. Năm 2016 đạt sản lượng 100.000 tấn, mang lại thu nhập bình quân 137 triệu đồng/ha. Vải thiều của Bắc Giang đã có mặt ở thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Ma-lai-xi-a và đang đàm phán để đưa sang Thái-lan, Ca-na-đa.

Nhiều tỉnh như: Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Lâm Ðồng, Tiền Giang đã xác định và phát triển thành công các loại quả, rau, hoa trở thành sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương, xuất khẩu ngày càng tăng, giúp nông dân thoát nghèo và có mức sống ngày một cao hơn.

Phát triển quả - rau - hoa trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của đất nước trong 10 năm tới cho phép phát huy các lợi thế tự nhiên là đất đai, khí hậu đặc thù của từng tỉnh, không phụ thuộc vào đất có lớn hay không, từ quy mô của vườn bên cạnh gia đình, đến vườn, trang trại trên đồi, đến đất nông nghiệp ở đồng bằng quy mô từ vài chục, đến hàng trăm ha của nông dân trong các hợp tác xã hoặc sản xuất theo hợp đồng với các doanh nghiệp. Hơn nữa, phát triển quả - rau - hoa xuất khẩu gắn với ứng dụng công nghệ cao có thể trở thành một thành phần của chương trình du lịch văn hóa, sinh thái ở các tỉnh, góp phần thoát nghèo và tăng thu nhập nhanh hơn cho nông dân.
Theo : nhandan.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Gần 1.900 tỷ đồng xây dựng trường học vùng biên giới Sơn La

Gần 1.900 tỷ đồng xây dựng trường học vùng biên giới Sơn La

Sáng 31/7, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La Hoàng Quốc Khánh chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy để xem xét, cho ý kiến về kết quả triển khai Thông báo Kết luận số 81-KL/TW ngày 18/7/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới.

Đồng Tháp đề xuất đầu tư xây dựng 14 trường liên cấp tại các xã biên giới

Đồng Tháp đề xuất đầu tư xây dựng 14 trường liên cấp tại các xã biên giới

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Tháp Lê Quang Trí cho biết, thực hiện theo Đề xuất chủ trương đầu tư xây dựng trường phổ thông nội trú, bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở tại các xã biên giới đất liền của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Tờ trình Số: 973/TTr-BGDĐT ngày 15/7/2025, đơn vị đã lập bảng xác định nhu cầu của từng trường, đề xuất phương án đầu tư xây dựng 14 trường tiểu học và trung học cơ sở tại các xã biên giới đất liền.

Dự kiến chi hơn 15 tỷ đồng/năm hỗ trợ cán bộ đến công tác tại các xã miền núi Thanh Hóa

Dự kiến chi hơn 15 tỷ đồng/năm hỗ trợ cán bộ đến công tác tại các xã miền núi Thanh Hóa

Trước thực trạng thiếu hụt đội ngũ lãnh đạo, quản lý tại các xã miền núi và biên giới, ngày 28/7/2025, Đảng ủy UBND tỉnh Thanh Hóa đã có Tờ trình số 195-TTr/ĐU gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, xin ý kiến về dự thảo Nghị quyết hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại các xã miền núi.

Hơn 75.000 ha đất lâm nghiệp 'chưa có rừng' ở Lâm Đồng

Hơn 75.000 ha đất lâm nghiệp 'chưa có rừng' ở Lâm Đồng

Khu vực phía Tây tỉnh Lâm Đồng (địa phận tỉnh Đắk Nông cũ) hiện có hơn 75.000 ha đất được xác định là "chưa có rừng". Phần lớn diện tích này là đất rừng, đất lâm nghiệp đã bị tàn phá, lấn chiếm và sử dụng để trồng các loại cây nông nghiệp, công nghiệp…

Cao Bằng tăng tốc hoàn thành chương trình an sinh về nhà ở

Cao Bằng tăng tốc hoàn thành chương trình an sinh về nhà ở

Theo báo cáo từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cao Bằng, tính đến ngày 25/7, toàn tỉnh đã hoàn thành việc khởi công gần 100% số nhà thay thế nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025 theo kế hoạch với sự hỗ trợ từ Nhà nước, các ban, ngành cùng nguồn vốn tự huy động của các gia đình.

Đắk Lắk xóa nhà tạm, dựng mái ấm cho người có công

Đắk Lắk xóa nhà tạm, dựng mái ấm cho người có công

Thực hiện chủ trương “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người có công” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực từng ngày để tri ân sâu sắc những người đã hy sinh, cống hiến cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Những căn nhà mới vững chãi đang được dựng lên không chỉ là nơi an cư, mà còn là biểu tượng của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” luôn được gìn giữ và phát huy.

Ngang nhiên khai thác cát trái phép trên sông Ayun

Ngang nhiên khai thác cát trái phép trên sông Ayun

Thời gian qua, hoạt động khai thác cát trái phép trên sông Ayun (đoạn chảy qua địa bàn xã Ayun, tỉnh Gia Lai) diễn ra công khai với quy mô lớn. Ghi nhận thực tế cho thấy, “cát tặc” ngang nhiên khai thác suốt ngày đêm, vận chuyển rầm rộ qua các tuyến đường chính mà không gặp bất cứ sự kiểm tra, xử lý nào từ chính quyền địa phương.

Tội phạm trên tuyến biên giới Tây Nam liên tục thay đổi thủ đoạn

Tội phạm trên tuyến biên giới Tây Nam liên tục thay đổi thủ đoạn

Tây Ninh có hơn 368 km đường biên giới tiếp giáp ba tỉnh của Vương quốc Campuchia gồm Svay Rieng, Pray Veng và Tboung Khmum. Tỉnh hiện có 4 cửa khẩu quốc tế, 4 cửa khẩu quốc gia, 13 cửa khẩu phụ. Thời gian qua, lợi dụng địa hình bằng phẳng và nhiều đường mòn, lối mở qua lại biên giới, một số đối tượng đã đưa tài sản trộm cắp trong nước sang Campuchia tiêu thụ. Lực lượng chức năng biên giới Tây Ninh đã tích cực vào cuộc xử lý.

Công an cơ sở - Cầu nối dịch vụ công vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Công an cơ sở - Cầu nối dịch vụ công vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Không cần phải đi xa hay chờ đợi lâu, người dân ở phía Tây tỉnh Gia Lai giờ đây dễ dàng làm thủ tục hành chính ngay tại cơ sở. Có được thuận lợi này là nhờ sự vào cuộc của lực lượng Công an xã, phường, đã đưa dịch vụ công đến gần dân hơn, đặc biệt là nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Bộ đội Biên phòng Quảng Trị hỗ trợ người dân có nhà bị cháy vượt qua khó khăn

Bộ đội Biên phòng Quảng Trị hỗ trợ người dân có nhà bị cháy vượt qua khó khăn

Ngày 23/7, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị cho biết, đơn vị vừa phối hợp với các lực lượng chức năng và chính quyền địa phương xã A Dơi triển khai chữa cháy kịp thời nhà dân lúc rạng sáng, hỗ trợ bước đầu cho gia đình các nạn nhân lương thực, thực phẩm để vượt qua khó khăn trước mắt.

Nghề nuôi yến đang hình thành chuỗi giá trị mới

Nghề nuôi yến đang hình thành chuỗi giá trị mới

Nghề nuôi chim yến đang hình thành nên chuỗi giá trị mới trong phát triển kinh tế nông thôn tại tỉnh Gia Lai. Không chỉ tạo ra nguồn thu nhập ổn định, nhiều mô hình còn được liên kết sản xuất, chuẩn hóa tiêu chuẩn sản phẩm, xây dựng thương hiệu hướng tới thị trường xuất khẩu.

Gia Lai hỗ trợ tối đa cho cán bộ, người lao động bị ảnh hưởng sau sắp xếp

Gia Lai hỗ trợ tối đa cho cán bộ, người lao động bị ảnh hưởng sau sắp xếp

Ngày 22/7, tại Kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh Gia Lai khóa XII, nhiệm kỳ 2021 - 2026, các đại biểu đã thống nhất thông qua Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Gia Lai bị tác động, ảnh hưởng của việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã.

Chăm lo cho người có công bằng trách nhiệm và trái tim

Chăm lo cho người có công bằng trách nhiệm và trái tim

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, tỉnh Đồng Nai luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến các đối tượng người có công với cách mạng. Các cấp ủy, chính quyền, tổ chức đảng và đoàn thể trong tỉnh đã tích cực triển khai nhiều hoạt động thiết thực, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Bắt quả tang đối tượng vận chuyển trái phép 2 bánh heroin

Bắt quả tang đối tượng vận chuyển trái phép 2 bánh heroin

Vào lúc 13 giờ ngày 21/7, tại km 229+100 Quốc lộ 4H (thuộc địa phận bản Tó Khò, xã Mù Cả, tỉnh Lai Châu) lực lượng Biên phòng thuộc Phòng Nghiệp vụ và Đồn Biên phòng Mù Cả, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu đã bắt quả tang đối tượng Vàng A Lâu (tên gọi khác là Vàng A Sơn, sinh năm 2000, dân tộc Mông, thường trú tại bản Nậm Vì, xã Mường Nhé, tỉnh Điện Biên) đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy.

Nghệ An miễn, giảm nhiều loại phí khi thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến

Nghệ An miễn, giảm nhiều loại phí khi thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến

Từ ngày 21/7, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Nghệ An khi thực hiện các thủ tục hành chính qua Cổng dịch vụ công trực tuyến (nộp hồ sơ qua môi trường điện tử) sẽ được miễn phí, lệ phí đối với nhiều thủ tục, như: Lệ phí đăng ký kinh doanh, lệ phí cấp giấy phép xây dựng, phí bình tuyển và công nhận cây mẹ, vườn cây đầu dòng, rừng giống...

 Lan tỏa đạo lý 'Uống nước nhớ nguồn'

Lan tỏa đạo lý 'Uống nước nhớ nguồn'

Ngày 21/7, tại Lào Cai và Quảng Trị diễn ra nhiều hoạt động thăm, tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng, các gia đình chính sách, người có công với cách mạng; dâng hương, dâng hoa tại Nghĩa trang liệt sĩ, nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2025).