Nằm ở khu vực biên giới của tỉnh Điện Biên, xã Nà Bủng còn gặp nhiều khó khăn, hộ nghèo chiếm trên 50%. Cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Nà Bủng không chỉ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia mà còn “3 bám, 4 cùng”, trở thành điểm tựa quan trọng, đồng hành cùng người dân trong hành trình thoát nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no.

Đồng hành phát triển sinh kế
Gia đình bà Mùa Thị Dớ, một hộ nghèo ở xã Nà Bủng, từng sống trong cảnh thiếu thốn quanh năm. Năm 2024, bước ngoặt đã đến khi gia đình bà được Trung úy Thào A Chua, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng (Đồn Biên phòng Nà Bủng) nhận phụ trách hỗ trợ. Không chỉ xuống tận nhà động viên, hướng dẫn kỹ thuật, Trung úy Chua còn kết nối các nguồn lực để hỗ trợ gia đình bà Dớ một con lợn giống, 15 con ngan và 15 con gà giống. Nhờ sự giúp đỡ kịp thời, gia đình bà xây dựng được mô hình chăn nuôi tập trung, bước đầu có nguồn thu nhập ổn định và từng bước thoát nghèo.
Bà Dớ chia sẻ: "Trước đây, gia đình khó khăn, không biết làm thế nào để cải thiện kinh tế. Từ khi được Bộ đội Biên phòng quan tâm hỗ trợ con giống, hướng dẫn chăm sóc, gia đình yên tâm làm ăn hơn, có thêm nguồn thu để nuôi con cái học hành".
Đồn Biên phòng Nà Bủng đã rà soát kỹ lưỡng toàn xã, lập danh sách các hộ nghèo cần giúp đỡ và triển khai nhiều chương trình đồng hành. Riêng năm 2024, đơn vị đã phối hợp các tổ chức từ thiện trao tặng hàng trăm con giống gia súc, gia cầm cho 15 hộ dân; cử cán bộ phụ trách từng hộ để hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt và theo dõi kết quả định kỳ.
Gia đình anh Vàng A Sình ở xã Nà Bủng là một hộ dân được hưởng lợi từ chương trình này. Từ chỗ chỉ sản xuất nhỏ lẻ, nay anh đã có đàn lợn và đàn gia cầm phát triển . Anh Sình xúc động chia sẻ: “Không có sự giúp đỡ của bộ đội biên phòng, gia đình tôi khó có được ngày hôm nay. Người dân trong bản ai cũng biết ơn các cán bộ, chiến sĩ đã luôn sát cánh giúp đỡ”.
“3 bám, 4 cùng” với nhân dân vùng biên
Xã Nà Bủng mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của xã Nà Bủng cũ và xã Vàng Đán cũ, với diện tích tự nhiên hơn 160 km2, quy mô dân số gần 11.000 nhân khẩu. Xã có địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, hộ nghèo còn hơn 50%, hộ cận nghèo 20%. Toàn xã có 9 dân tộc cùng chung sống, trong đó đồng bào dân tộc Mông chiếm khoảng 96%. Nà Bủng có 16 bản, trong đó có 10 bản giáp biên với hơn 38 km đường biên, 13 cột mốc.
Quản lý địa bàn nhiều khó khăn, cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng Nà Bủng đã xác định công tác hỗ trợ phát triển kinh tế, giảm nghèo cho người dân là nhiệm vụ quan trọng, song hành cùng bảo vệ chủ quyền biên giới. Ngoài việc hỗ trợ con giống, cán bộ, chiến sĩ còn trực tiếp tham gia giúp nhân dân chăm sóc mùa màng, thu hoạch lúa; làm nhà tình nghĩa; thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, hộ khó khăn vào các dịp lễ, Tết.
Đại úy Đinh Công Đạt, Đội Kiểm soát hành chính (Đồn Biên phòng Nà Bủng) cho biết, đơn vị được giao phụ trách hỗ trợ 7 hộ gia đình ở bản Nậm Tắt 2. Không chỉ trao tặng con giống, chiến sĩ của đơn vị còn thường xuyên xuống bản hướng dẫn cách làm chuồng trại, phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi.
Theo Thượng tá Lầu A Tú, Chính trị viên Đồn Biên phòng Nà Bủng, đơn vị đã phân công 21 đảng viên trực tiếp phụ trách 99 hộ nghèo trong xã. Ngoài nguồn lực của đồn, đơn vị còn vận động các tổ chức thiện nguyện, doanh nghiệp cùng chung tay hỗ trợ người dân. Thời gian tới, đồn tiếp tục rà soát, bổ sung thêm nhiều hình thức hỗ trợ thiết thực, giúp người dân ổn định sinh kế lâu dài.
Song song với nhiệm vụ chuyên môn, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Nà Bủng luôn thấm nhuần phương châm “3 bám, 4 cùng” với nhân dân vùng biên (bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương chính sách; cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng đồng bào). Nhờ vậy, họ hiểu rõ đời sống, phong tục tập quán của nhân dân, kịp thời nắm bắt những khó khăn để có biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Ông Nguyễn Văn Tiếp, Chủ tịch UBND xã Nà Bủng cho biết, lực lượng Biên phòng đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực như hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo, giúp người dân phát triển sản xuất, tổ chức các chương trình an sinh xã hội, thực hiện mô hình ‘Con nuôi đồn Biên phòng". Những việc làm này đã góp phần quan trọng giúp người dân ổn định đời sống, từng bước xóa đói giảm nghèo, thắt chặt thêm tình đoàn kết quân - dân nơi biên giới. Từ những hoạt động thiết thực ấy, người dân không chỉ yên tâm sản xuất, mà còn tích cực tham gia bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới.
Với sự đồng hành của những người lính "quân hàm xanh", Nà Bủng đang từng ngày đổi thay. Những mô hình kinh tế mới xuất hiện, nhiều hộ nghèo đã có điều kiện vươn lên, đời sống người dân ngày càng cải thiện. Hơn hết, niềm tin vào bộ đội biên phòng luôn sẵn sàng chia sẻ khó khăn, trở thành động lực để người dân tiếp tục nỗ lực xây dựng quê hương nơi vùng biên thêm vững mạnh, ấm no./.
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn
