Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Vĩnh Thuận là huyện vùng sâu, vùng xa thuộc vùng U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang), cách trung tâm thành phố Rạch Giá 80 km đường bộ, có địa giới hành chính tiếp giáp với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang. Huyện có diện tích tự nhiên rộng hơn 39.000 ha; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp gần 37.000 ha, chiếm trên 93% diện tích đất tự nhiên.

Vĩnh Thuận có dân số 23.778 hộ, với gần 95.000 khẩu; dân tộc Khmer 1.919 hộ, với trên 7.900 khẩu, chiếm gần 8,3%, sống đan xen với người Kinh, tập trung đông nhất xã Vĩnh Bình Bắc, Phong Đông, Tân Thuận, phát triển kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản, một bộ phận đời sống còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer còn khá cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 1

Nhiều hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) thực hiện theo mô hình tôm-cua có thu nhập hàng năm khá, đã vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Lê Sen

Theo ông Huỳnh Tấn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận, những năm qua, thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, các cấp ủy, chính quyền huyện đã tập trung đồng bộ nhiều giải pháp để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đẩy nhanh tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện. Đồng thời, tập trung chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, giống, cây trồng theo hướng thích hợp, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, đời sống, vật chất của người dân, giảm nghèo bền vững, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Qua thời gian triển khai thực hiện giai đoạn 2014-2019, đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Vĩnh Thuận, như mô hình tôm - cua kết hợp, mô hình nuôi tôm càng xanh, đặc biệt là mô hình tôm - lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Từ hiệu quả của mô hình tôm - lúa, đời sống nhiều hộ dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer từng bước được nâng lên nhờ nâng cao thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm, từ 276 hộ năm 2014, giảm xuống còn gần 150 hộ đầu năm 2020, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng xã nông thôn mới. Đến nay, Vĩnh Thuận có 7/7 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 3 xã có đồng bào dân tộc Khmer được công nhận, diện mạo nông thôn vùng dân tộc được khởi sắc, khang trang hơn so với trước.

Trước đây, bà con trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đa phần là thực hiện sản suất canh tác chuyên canh lúa hoặc chuyên tôm nhưng hiệu quả mang lại không cao và thiếu bền vững. Thực tế cho thấy mô hình chuyên tôm, qua nhiều năm thâm canh liên tục, ao tôm bị lão hóa, mầm bệnh nhiều, nghề nuôi tôm bộc lộ nhiều rủi ro cao và thiếu bền vững; còn đối với mô hình chuyên lúa, do điều kiện biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập nên hiệu quả mang lại không cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 2

Mô hình nuôi tôm công nghiệp tại hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: Lê Sen

Qua chuyển đổi thực hiện mô hình tôm - lúa đã cho thấy hiệu quả tích cực, mô hình phát triển bền vững, hạn chế rủi ro, thích ứng được với biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập, cải thiện được môi trường canh tác... Từ đó, thu nhập bình quân ổn định và xuất hiện nhiều nhân tố điển hình tiên tiến, nhiều mô hình trong đồng bào dân tộc Khmer cho lợi nhuận hàng năm trên 100 triệu đồng/ha, như hộ ông Danh Thanh ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc), ông Danh Lâu ở ấp Kinh 2 (xã Tân Thuận), ông Danh Sơn Hà ở ấp Bời Lời B (xã Bình Minh)...

Ông Danh Thanh, ngụ ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc) cho biết, trước đây vùng đất này bị nhiễm phèn mặn nên chỉ trồng được cây khóm (dứa), sau đó được Nhà nước đầu tư nạo vét kênh mương nên nuôi được tôm. Thế nhưng con tôm chỉ nuôi được vài năm bắt đầu xảy ra tình trạng tôm bị chết hoặc lâu lớn do các ao nuôi lâu ngày bị lão hóa.

Sau đó, được hướng dẫn của cán bộ khuyến nông và theo định hướng của chính quyền địa phương chuyển sang mô hình nuôi một vụ tôm, trồng một lúa. Với hướng đi này, không chỉ ruộng lúa cho năng suất cao mà trở lại nuôi vụ tôm cũng đạt năng suất cao hơn trước. Nhờ vậy, với hơn 1 ha diện tích canh theo theo mô hình tôm - lúa đã cho gia đình ông Thanh thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.

Ông Thái Thanh Phong, Chủ tịch UBND xã Phong Đông cho biết, xã có tổng dân số 4.728 người, có 1.421 hộ, dân tộc Khmer chiếm hơn 29%. Thời điểm năm 2016, đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn, thu nhập bình quân đạt 22,4 triệu đồng/người/năm và không ổn định; tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc Khmer lạc hậu, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn phát triển chưa đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo còn cao với 309 hộ, chiếm hơn 21 dân số.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 3

Tập huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác theo mô hình lúa - tôm cho bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Nhưng bằng những bước đi cụ thể, trọng tâm là đã chuyển đổi trên 2.000 ha đất trồng lúa sang mô hình tôm - lúa trong nông dân đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn đã làm thay đổi cuộc sống người dân nơi đây. Đến đầu năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của người dân xã có đông đồng bào dân tộc Khmer Phong Đông tăng lên trên 45 triệu đồng và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,59%.

Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận Huỳnh Tấn Phi cho biết, đến nay, hầu hết các hộ nuôi tôm trên địa bàn huyện Vĩnh Thuận nói chung, hộ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã chuyển sang mô hình sản xuất luân canh tôm - lúa. Đây là mô hình rất có triển vọng, huyện Vĩnh Thuận cũng đã chọn mô hình này để nhân rộng.

Để mô hình nâng cao hiệu quả, đảm bảo tính bền vững, lâu dài, Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh triển khai tái cơ cấu ngành nông nghiệp; thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển sản xuất, nhất là trong nuôi trồng thủy sản, gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao thu nhập người dân nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nhân dân, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer nâng cao nhận thức thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, mạnh dạn chuyển đổi giống, cây trồng, vật nuôi và xác định mô hình tôm - lúa là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Từ đó, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, giảm nghèo bền vững.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 4

Cán bộ huyện Vĩnh Thuận xuống cơ sở, trao đổi về tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Trong thời gian tới, huyện Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung đẩy mạnh nhân rộng mô hình gắn với tăng cường tập huấn, chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cho người sản xuất, đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đồng thời, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các mô hình làm ăn có hiệu quả để trao đổi và học hỏi kinh nghiệm; chỉ đạo liên kết sản xuất gắn kêu gọi các công ty, xí nghiệp cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ cho sản xuất và bao tiêu sản phẩm…/.

Lê Sen, An Hiếu

(Báo ảnh DT&MN/TTXVN)
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Huyện Kon Rẫy hoàn thành công tác xóa nhà tạm đầu tiên tại Kon Tum

Huyện Kon Rẫy hoàn thành công tác xóa nhà tạm đầu tiên tại Kon Tum

Thực hiện phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025”, tỉnh Kon Tum đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc giúp người dân, nhất là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn được sinh sống tại nơi ở mới, khang trang và sạch đẹp hơn. Trong đó, huyện Kon Rẫy (tỉnh Kon Tum) là một trong những địa phương nổi bật khi hoàn thành việc xóa 155 căn nhà tạm, dột nát trước thời hạn kế hoạch đề ra.

Kon Tum tiếp tục yêu cầu kiểm tra lại việc mã số vùng trồng cho sâm Ngọc Linh

Kon Tum tiếp tục yêu cầu kiểm tra lại việc mã số vùng trồng cho sâm Ngọc Linh

Liên quan đến những bất cập trong việc cấp mã vùng trồng sâm Ngọc Linh của Chi cục Nông nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum tiếp tục có văn bản yêu cầu Sở Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương kiểm tra, rà soát toàn bộ hồ sơ đề nghị, quy trình, trình tự cấp mã số vùng trồng đối với Công ty cổ phần Rượu sâm Ngọc Linh (số 2056/UBND-KTN ngày 6/6/2025).

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên: Bám tiến độ giữa mưa rừng, núi đá

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên: Bám tiến độ giữa mưa rừng, núi đá

Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn do thời tiết và địa hình hiểm trở, các đơn vị thi công thuộc dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên đang nỗ lực huy động tối đa nhân lực, thiết bị, linh hoạt tổ chức thi công để đảm bảo hoàn thành toàn tuyến trước ngày 19/8 theo chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng Chính phủ.

Mùa xuân ‘gõ cửa’ trên những mái ấm xứ Thanh

Mùa xuân ‘gõ cửa’ trên những mái ấm xứ Thanh

Trong những thôn xóm tại huyện Như Xuân (tỉnh Thanh Hóa), một ngày mới bắt đầu như bao miền quê yên bình khác. Nhưng phía sau khung cảnh quen thuộc ấy là những thay đổi tích cực trong đời sống gia đình và vị thế người phụ nữ.

Tạo sự đồng thuận trong xây dựng nông thôn mới

Tạo sự đồng thuận trong xây dựng nông thôn mới

Từ vùng quê với muôn vàn khó khăn, xã Bình Hòa Nam (huyện Đức Huệ, tỉnh Long An) đang từng bước chuyển mình trở thành xã nông thôn mới vào năm 2020, mục tiêu thành xã nông thôn mới nâng cao vào cuối năm 2025 với sự chung sức đồng lòng của người dân và những định hướng quyết liệt từ chính quyền.

Nhân rộng và phát huy hiệu quả nhiều mô hình bảo vệ môi trường

Nhân rộng và phát huy hiệu quả nhiều mô hình bảo vệ môi trường

Ngày 6/6, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Tuyên Quang tổ chức tổng kết thực hiện phong trào "Tuyên Quang chung tay xử lý rác thải và chống rác thải nhựa" giai đoạn 2021 - 2025 và sơ kết công tác MTTQ Việt Nam tham gia thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025.

An Giang: Hoàn thành sớm xóa nhà tạm, dột nát

An Giang: Hoàn thành sớm xóa nhà tạm, dột nát

Tính đến đầu tháng 6/2025, tất cả 11/11 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh An Giang đã cơ bản hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, dột nát, sớm hơn so với kế hoạch của Ban Chỉ đạo tỉnh.

Kon Tum: Phát sinh hơn 1.300 nhà tạm, dột nát cần xóa

Kon Tum: Phát sinh hơn 1.300 nhà tạm, dột nát cần xóa

Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kon Tum thông tin, đến đầu tháng 6/2025, công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát ở tỉnh đạt 97% trong tổng số hơn 2.700 hộ. Tuy nhiên, qua rà soát, các huyện, thành phố đã đề xuất phê duyệt bổ sung thêm 1.312 hộ có nhà tạm, nhà dột nát cần xóa.

Hàng loạt cầu treo dân sinh ở Gia Lai xuống cấp nghiêm trọng

Hàng loạt cầu treo dân sinh ở Gia Lai xuống cấp nghiêm trọng

Qua đợt kiểm tra toàn diện hệ thống cầu treo dân sinh theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng tỉnh Gia Lai đã phát hiện nhiều cây cầu xuống cấp nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông và tính mạng người dân.

Trao tặng nhà tình nghĩa cho người dân vùng khó Kon Tum

Trao tặng nhà tình nghĩa cho người dân vùng khó Kon Tum

Ngày 5/6, Công ty Điện lực Kon Tum phối hợp với chính quyền xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei tổ chức bàn giao 5 căn nhà tình nghĩa cho các hộ nghèo người đồng bào dân tộc thiểu số thôn Đăk Bối (xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum).

Mưa lũ gây thiệt hại hơn 30 ha cây trồng ở Yên Bái

Mưa lũ gây thiệt hại hơn 30 ha cây trồng ở Yên Bái

Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái, do chịu ảnh hưởng của rãnh áp thấp có trục qua Bắc Trung Bộ kết hợp với hội tụ gió trên 3.000 m, các khu vực trong tỉnh Yên Bái đêm ngày 4 và sáng 5/6 có mưa rào, mưa to và dông. Mưa lũ to gây thiệt hại hơn 30 ha diện tích nông nghiệp của người dân và một số công trình giao thông ở huyện Văn Yên.

Nghệ An: Mưa lớn gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16

Nghệ An: Mưa lớn gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16

Những ngày qua, khu vực các huyện miền núi biên giới Tương Dương, Kỳ Sơn của tỉnh Nghệ An có mưa to. Đặc biệt, vào các ngày 28, 29/5 và tối 4/6, mưa rất to đã gây sạt lở nghiêm trọng trên Quốc lộ 16 khiến giao thông bị chia cắt hoàn toàn.

‘Thủ lĩnh của sự thay đổi’: Hành trình lớn từ những trái tim nhỏ

‘Thủ lĩnh của sự thay đổi’: Hành trình lớn từ những trái tim nhỏ

Giữa những ngọn núi phủ sương và những bản làng xa xôi, nơi con đường đến trường vẫn còn gập ghềnh đất đỏ, câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” như một tia sáng, mở ra hành trình mới cho những em nhỏ dân tộc thiểu số, học cách hiểu mình, hiểu người khác và mạnh dạn cất lên tiếng nói.

Bản vùng cao Yên Bái chờ điện lưới quốc gia

Bản vùng cao Yên Bái chờ điện lưới quốc gia

Nhiều năm nay, cuộc sống của người dân ở một số bản vùng cao Yên Bái chưa có điện lưới quốc gia gặp nhiều khó khăn. Niềm mong mỏi lớn nhất của bà con lúc này là Nhà nước, tỉnh Yên Bái sớm đầu tư, xây dựng công trình điện lưới, giúp người dân ổn định cuộc sống sinh hoạt, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội.

Dấu ấn xóa nhà tạm nơi biên giới

Dấu ấn xóa nhà tạm nơi biên giới

Hưởng ứng phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”, thời gian qua, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu đã triển khai hiệu quả phong trào hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo trên địa bàn các xã biên giới của tỉnh.

Xuyên đêm giải cứu 4 người dân bị mắc kẹt giữa dòng lũ ở rừng A Lưới

Xuyên đêm giải cứu 4 người dân bị mắc kẹt giữa dòng lũ ở rừng A Lưới

Ngày 5/6, lãnh đạo Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn Công an thành phố Huế thông tin, hàng chục cán bộ, chiến sĩ đơn vị cùng các phương tiện xuyên đêm 4/6 cứu hộ thành công bốn người dân bị mắc kẹt giữa dòng nước lũ chảy xiết trong rừng ở huyện miền núi, biên giới A Lưới.

Lâm Đồng có 6/9 địa phương hoàn thành xóa nhà tạm

Lâm Đồng có 6/9 địa phương hoàn thành xóa nhà tạm

Ngày 5/6, thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, tính đến hiện tại đã có 6/9 địa phương trong tỉnh hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và bàn giao cho người dân vào sử dụng.

Thiếu đường dẫn lên cầu, người dân vẫn phải qua sông bằng phà

Thiếu đường dẫn lên cầu, người dân vẫn phải qua sông bằng phà

Công trình Cầu vượt sông Krông Bông (thuộc Dự án Bố trí ổn định dân di cư tự do tại xã Vụ Bổn, huyện Krông Pắc) được khởi công từ tháng 5/2023 dự kiến hoàn thành trong tháng 12/2023. Công trình đã thi công hoàn thành hạng mục cầu với khối lượng thực hiện đạt khoảng 97% nhưng hơn một năm qua vẫn chưa có đường dẫn lên cầu. Do đó, hằng ngày người dân phải “vượt sông” bằng phà, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, nhất là trong mùa mưa lũ.