Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Vĩnh Thuận là huyện vùng sâu, vùng xa thuộc vùng U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang), cách trung tâm thành phố Rạch Giá 80 km đường bộ, có địa giới hành chính tiếp giáp với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang. Huyện có diện tích tự nhiên rộng hơn 39.000 ha; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp gần 37.000 ha, chiếm trên 93% diện tích đất tự nhiên.

Vĩnh Thuận có dân số 23.778 hộ, với gần 95.000 khẩu; dân tộc Khmer 1.919 hộ, với trên 7.900 khẩu, chiếm gần 8,3%, sống đan xen với người Kinh, tập trung đông nhất xã Vĩnh Bình Bắc, Phong Đông, Tân Thuận, phát triển kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản, một bộ phận đời sống còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer còn khá cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 1

Nhiều hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) thực hiện theo mô hình tôm-cua có thu nhập hàng năm khá, đã vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Lê Sen

Theo ông Huỳnh Tấn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận, những năm qua, thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, các cấp ủy, chính quyền huyện đã tập trung đồng bộ nhiều giải pháp để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đẩy nhanh tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện. Đồng thời, tập trung chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, giống, cây trồng theo hướng thích hợp, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, đời sống, vật chất của người dân, giảm nghèo bền vững, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Qua thời gian triển khai thực hiện giai đoạn 2014-2019, đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Vĩnh Thuận, như mô hình tôm - cua kết hợp, mô hình nuôi tôm càng xanh, đặc biệt là mô hình tôm - lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Từ hiệu quả của mô hình tôm - lúa, đời sống nhiều hộ dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer từng bước được nâng lên nhờ nâng cao thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm, từ 276 hộ năm 2014, giảm xuống còn gần 150 hộ đầu năm 2020, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng xã nông thôn mới. Đến nay, Vĩnh Thuận có 7/7 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 3 xã có đồng bào dân tộc Khmer được công nhận, diện mạo nông thôn vùng dân tộc được khởi sắc, khang trang hơn so với trước.

Trước đây, bà con trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đa phần là thực hiện sản suất canh tác chuyên canh lúa hoặc chuyên tôm nhưng hiệu quả mang lại không cao và thiếu bền vững. Thực tế cho thấy mô hình chuyên tôm, qua nhiều năm thâm canh liên tục, ao tôm bị lão hóa, mầm bệnh nhiều, nghề nuôi tôm bộc lộ nhiều rủi ro cao và thiếu bền vững; còn đối với mô hình chuyên lúa, do điều kiện biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập nên hiệu quả mang lại không cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 2

Mô hình nuôi tôm công nghiệp tại hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: Lê Sen

Qua chuyển đổi thực hiện mô hình tôm - lúa đã cho thấy hiệu quả tích cực, mô hình phát triển bền vững, hạn chế rủi ro, thích ứng được với biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập, cải thiện được môi trường canh tác... Từ đó, thu nhập bình quân ổn định và xuất hiện nhiều nhân tố điển hình tiên tiến, nhiều mô hình trong đồng bào dân tộc Khmer cho lợi nhuận hàng năm trên 100 triệu đồng/ha, như hộ ông Danh Thanh ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc), ông Danh Lâu ở ấp Kinh 2 (xã Tân Thuận), ông Danh Sơn Hà ở ấp Bời Lời B (xã Bình Minh)...

Ông Danh Thanh, ngụ ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc) cho biết, trước đây vùng đất này bị nhiễm phèn mặn nên chỉ trồng được cây khóm (dứa), sau đó được Nhà nước đầu tư nạo vét kênh mương nên nuôi được tôm. Thế nhưng con tôm chỉ nuôi được vài năm bắt đầu xảy ra tình trạng tôm bị chết hoặc lâu lớn do các ao nuôi lâu ngày bị lão hóa.

Sau đó, được hướng dẫn của cán bộ khuyến nông và theo định hướng của chính quyền địa phương chuyển sang mô hình nuôi một vụ tôm, trồng một lúa. Với hướng đi này, không chỉ ruộng lúa cho năng suất cao mà trở lại nuôi vụ tôm cũng đạt năng suất cao hơn trước. Nhờ vậy, với hơn 1 ha diện tích canh theo theo mô hình tôm - lúa đã cho gia đình ông Thanh thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.

Ông Thái Thanh Phong, Chủ tịch UBND xã Phong Đông cho biết, xã có tổng dân số 4.728 người, có 1.421 hộ, dân tộc Khmer chiếm hơn 29%. Thời điểm năm 2016, đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn, thu nhập bình quân đạt 22,4 triệu đồng/người/năm và không ổn định; tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc Khmer lạc hậu, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn phát triển chưa đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo còn cao với 309 hộ, chiếm hơn 21 dân số.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 3

Tập huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác theo mô hình lúa - tôm cho bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Nhưng bằng những bước đi cụ thể, trọng tâm là đã chuyển đổi trên 2.000 ha đất trồng lúa sang mô hình tôm - lúa trong nông dân đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn đã làm thay đổi cuộc sống người dân nơi đây. Đến đầu năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của người dân xã có đông đồng bào dân tộc Khmer Phong Đông tăng lên trên 45 triệu đồng và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,59%.

Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận Huỳnh Tấn Phi cho biết, đến nay, hầu hết các hộ nuôi tôm trên địa bàn huyện Vĩnh Thuận nói chung, hộ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã chuyển sang mô hình sản xuất luân canh tôm - lúa. Đây là mô hình rất có triển vọng, huyện Vĩnh Thuận cũng đã chọn mô hình này để nhân rộng.

Để mô hình nâng cao hiệu quả, đảm bảo tính bền vững, lâu dài, Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh triển khai tái cơ cấu ngành nông nghiệp; thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển sản xuất, nhất là trong nuôi trồng thủy sản, gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao thu nhập người dân nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nhân dân, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer nâng cao nhận thức thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, mạnh dạn chuyển đổi giống, cây trồng, vật nuôi và xác định mô hình tôm - lúa là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Từ đó, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, giảm nghèo bền vững.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 4

Cán bộ huyện Vĩnh Thuận xuống cơ sở, trao đổi về tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Trong thời gian tới, huyện Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung đẩy mạnh nhân rộng mô hình gắn với tăng cường tập huấn, chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cho người sản xuất, đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đồng thời, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các mô hình làm ăn có hiệu quả để trao đổi và học hỏi kinh nghiệm; chỉ đạo liên kết sản xuất gắn kêu gọi các công ty, xí nghiệp cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ cho sản xuất và bao tiêu sản phẩm…/.

Lê Sen, An Hiếu

(Báo ảnh DT&MN/TTXVN)
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Tìm kiếm nạn nhân mất tích khi đánh cá trên sông

Tìm kiếm nạn nhân mất tích khi đánh cá trên sông

Chiều 27/10, Ban Chỉ huy Phòng thủ khu vực 4 - Bàn Thạch (Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng) cho biết đang cùng các lực lượng địa phương xã Núi Thành, thành phố Đà Nẵng tìm kiếm một người mất tích khi đi đánh cá trên sông.

Lâm Đồng: Mưa lớn gây ngập cục bộ nhiều khu vực

Lâm Đồng: Mưa lớn gây ngập cục bộ nhiều khu vực

Đêm 26/10 và rạng sáng 27/10, tại nhiều khu vực trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng xảy ra mưa vừa, mưa to, có nơi mưa rất to. Mưa lớn đã gây ngập cục bộ nhiều diện tích hoa màu, đặc biệt là thanh long, bị thiệt hại nặng nề. Cơn mưa cũng khiến mực nước các sông, suối dâng cao, các hồ chứa Cà Giây, Sông Lũy… phải điều tiết, xả lũ. Chính quyền và người dân đang khẩn trương nỗ lực khắc phục hậu quả.

Gửi yêu thương đến đồng bào vùng lũ

Gửi yêu thương đến đồng bào vùng lũ

Từ ngày 23 - 27/10, Chi đoàn Phòng Tham mưu, Công an tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Hội thiện nguyện “Từ tâm Thới Lai” - thành phố Cần Thơ tổ chức chương trình “Trao yêu thương - Gửi ấm áp đến đồng bào vùng lũ tỉnh Tuyên Quang”, trao tặng 1.600 suất quà cho các hộ dân bị thiệt hại nặng sau bão số 10 và 11. Đây là hoạt động mang đậm ý nghĩa nhân văn, thể hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách”, kết nối tấm lòng của những người con miền Tây sông nước với đồng bào vùng lũ, góp phần sẻ chia khó khăn, lan tỏa yêu thương.

Bố trí khu cách ly, điều trị bệnh lỵ trực trùng tại xã Nậm Kè, Mường Nhé

Bố trí khu cách ly, điều trị bệnh lỵ trực trùng tại xã Nậm Kè, Mường Nhé

Ngày 26/10, Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Điện Biên Vừ A Sử cho biết, từ 15 giờ ngày 25/10 đến 7 giờ ngày 26/10, ổ dịch lỵ trực trùng tại xã Nậm Kè (tỉnh Điện Biên) ghi nhận thêm 11 trường hợp mắc mới đều tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Trung học cơ sở Nậm Kè. Toàn bộ bệnh nhân đã được chuyển vào khu cách ly tại trường để điều trị.

Đà Nẵng: Mưa to trên diện rộng, sạt lở núi ở nhiều nơi gần khu dân cư

Đà Nẵng: Mưa to trên diện rộng, sạt lở núi ở nhiều nơi gần khu dân cư

Đêm 25 và ngày 26/10, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có mưa to trên diện rộng. Ở khu vực miền núi, lượng mưa lớn khiến đồi núi tích tụ lượng nước lớn, cộng với nước lũ tràn về, đã dẫn đến sạt lở nhiều nơi trong khu dân cư của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhiều xã miền núi đã và đang khẩn trương di chuyển người dân ở khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn.

Ra mắt mô hình 'Xe cứu thương 0 đồng Biên phòng'

Ra mắt mô hình 'Xe cứu thương 0 đồng Biên phòng'

Ngày 26/10, tại Đồn Biên phòng Cổ Chiên (Bộ đội Biên phòng tỉnh Vĩnh Long), Ban Chỉ huy Đồn tổ chức ra mắt mô hình Dân vận khéo “Xe cứu thương 0 đồng Biên phòng”, nhân kỷ niệm 35 năm ngày Điều dưỡng Việt Nam (26/10/1990 - 26/10/2025).

Điện Biên cần nỗ lực hoàn thành các chỉ tiêu của năm 2025

Điện Biên cần nỗ lực hoàn thành các chỉ tiêu của năm 2025

Ngày 26/10, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cùng đoàn công tác đã có buổi làm việc với tỉnh Điện Biên về tình hình sản xuất kinh doanh, đầu tư công, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, nhà ở xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia và việc thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp.

Sạt lở lớn trên Quốc lộ 4C, Quản Bạ (Tuyên Quang) phân luồng giao thông tạm thời

Sạt lở lớn trên Quốc lộ 4C, Quản Bạ (Tuyên Quang) phân luồng giao thông tạm thời

Vào khoảng 8 giờ 30 phút ngày 25/10, tại Km43+600 Quốc lộ 4C, đoạn qua xã Quản Bạ (Tuyên Quang) đã xảy ra vụ sạt lở taluy dương với chiều dài khoảng 50m, khối lượng đất đá sạt ước tính lên tới 5.000m³. Vụ sạt lở khiến toàn bộ tuyến đường bị ách tắc, các phương tiện giao thông không thể lưu thông qua khu vực này.

Nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới

Nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới

Sau khi nghiên cứu dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, lãnh đạo, cán bộ, đảng viên tỉnh Sơn La đều đồng tình, nhất trí cao với bố cục, nội dung; khẳng định dự thảo được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, khoa học, có chất lượng cao, thể hiện rõ tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược và khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Đột phá theo Nghị quyết 57: Thúc đẩy nhận thức về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Đột phá theo Nghị quyết 57: Thúc đẩy nhận thức về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Chiều 24/10, tại xã Măng Đen (Quảng Ngãi), Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc Ngày hội Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số năm 2025 với chủ đề “Hội tụ nguồn lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - Vì một Quảng Ngãi phát triển nhanh và bền vững”.

Trung thu muộn cho trẻ em vùng cao

Trung thu muộn cho trẻ em vùng cao

Tại ngôi trường vùng cao của tỉnh Thái Nguyên – Trường Tiểu học Đồng Phúc – nơi nhiều năm liên tiếp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các đợt bão lớn. Trong hai năm 2024 và 2025, xã Đồng Phúc bị tàn phá bởi 3 cơn bão: Yagi, số 5 và số 11, gây sạt lở nghiêm trọng, đường sá bị chia cắt khiến nhà trường không thể khai giảng đúng lịch như các nơi khác. Học sinh nơi đây phải nhập học muộn hơn một tháng so với cả nước.

Chính sách tín dụng ưu đãi tiếp sức học sinh, sinh viên vùng biên

Chính sách tín dụng ưu đãi tiếp sức học sinh, sinh viên vùng biên

Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Bù Gia Mập (tỉnh Đồng Nai) đã nhanh chóng triển khai Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán.

Thanh Hóa: Khẩn trương thi công các công trình, dự án phòng, chống thiên tai

Thanh Hóa: Khẩn trương thi công các công trình, dự án phòng, chống thiên tai

Hiện, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có khoảng 200 công trình ứng phó với mưa, lũ đang được thi công nhằm đưa vào sử dụng phục vụ cho công tác phòng, chống thiên tai. Ngay sau khi cơn bão số 10, 11 đi qua, các đơn vị thi công đã huy động máy móc, nhân lực để khẩn trương thi công các hạng mục còn lại của công trình, phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án trong năm 2025.

Nhiều xã vùng núi ở miền Trung đối mặt nguy cơ sạt lở đất đá

Nhiều xã vùng núi ở miền Trung đối mặt nguy cơ sạt lở đất đá

Sau khi cơn bão số 12 đi qua, mặc dù mưa đã ngớt, nhưng các xã miền núi ở miền Trung vẫn đang phải đối mặt với nguy cơ sạt lở đất đá tiềm ẩn do lượng nước mà bão trút xuống làm cho đất bị “ngấm nước”, kết cấu yếu. Chính quyền và người dân địa phương đang chủ động triển khai các biện pháp ứng phó để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản trước nguy cơ xảy ra sạt lở đất đá.

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Từ ngày 22/10, tỉnh Lâm Đồng bắt đầu triển khai thực hiện Kế hoạch Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030. Kế hoạch nhằm xây dựng, phát triển hạ tầng dữ liệu đồng bộ, thống nhất, đảm bảo khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương, tạo nền tảng cho phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Tại tỉnh Cà Mau, có một thời năn bộp được xem là loài cỏ dại ngự trị trên các cánh đồng, nông dân ai nhìn thấy cũng đều thở dài ngao ngán, vì tốn rất nhiều công sức để phá bỏ, cải tạo trồng lúa. Nhưng đó là câu chuyện của ngày trước, năn bộp giờ đây đã được trồng, chăm sóc, xây dựng thương hiệu sản phẩm OCOP mang lại thu nhập cho nông dân cao hơn hẳn so với trồng lúa.