Sau những năm lao đao vì bệnh khảm lá, cây sắn – “cây cứu đói” của những thập niên trước đang được hồi sinh mạnh mẽ trên nhiều vùng đất. Nhờ thành tựu khoa học trong chọn tạo giống kháng bệnh và sự vào cuộc đồng bộ của “bốn nhà” (Nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nông dân), ngành sắn Việt Nam đang đứng trước cơ hội mới: tái thiết vùng nguyên liệu, nâng giá trị chế biến và phát triển bền vững.

Từ nỗi lo mất trắng đến hy vọng mới trên cánh đồng sắn
Trên những cánh đồng sắn xã Tân Hội, tỉnh Tây Ninh, người trồng sắn vẫn chưa quên những năm mất mùa vì bệnh khảm lá. Anh Bùi Công Ngọc (46 tuổi, ngụ ấp Tân Trường, xã Tân Hội) là nông dân hơn 20 năm gắn bó với cây sắn, cho biết, trước đây, giống KM94 được mùa, nhưng từ khi bệnh khảm lan rộng, năng suất chỉ còn một nửa, cây còi cọc, củ nhỏ. Nông dân chỉ còn biết “cầm cự” chờ giống mới.
Không chỉ Tây Ninh, bệnh khảm lá lan nhanh khắp Đông Nam Bộ và miền Trung, khiến hàng nghìn ha sắn bị tiêu hủy. Nhiều địa phương phải tạm ngưng trồng sắn do thiếu giống sạch bệnh. Trước nguy cơ “đứt gãy” ngành hàng, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có giống sắn kháng bệnh, năng suất cao, phù hợp sản xuất đại trà.
Tại buổi tìm hiểu giống sắn kháng bệnh khảm lá ở Tây Ninh, ông Nguyễn Thành Bích (52 tuổi, ngụ xã Long Hà, Tỉnh Đồng Nai) chia sẻ, nhiều năm qua, cây sắn tại địa phương đang chịu ảnh hưởng nặng nề của bệnh khảm lá, đặc biệt trên các giống phổ biến như KM94 và KM140. “Các giống này hiện bị nhiễm bệnh gần như 100%, năng suất chỉ còn khoảng 20–25 tấn/ha, giảm hơn một nửa so với trước đây”. Cũng theo ông Bích, từ năm 2020 đến nay, diện tích trồng sắn ở xã Long Hà và các vùng lân cận đã giảm mạnh do bệnh khảm lá lan rộng, kéo theo nhiều cơ sở thu mua, chế biến tinh bột sắn hoạt động cầm chừng, thậm chí đứng trước nguy cơ tạm ngưng sản xuất nếu nguồn nguyên liệu không được phục hồi.

Người trồng sắn tại xã Tân Hội, tỉnh Tây Ninh ứng dụng năng lượng tái tạo vào chăm sóc, tưới tiêu cho giống sắn mới.
Trước thực trạng đó, năm 2021, Dự án nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong phát triển giống sắn có khả năng kháng bệnh khảm lá, kiểu hình thân thẳng, hàm lượng tinh bột ổn định và năng suất cao, được khởi động. Dự án được tài trợ bởi Quỹ Thiện Tâm (Tập đoàn Vingroup) tài trợ. GS. TS. Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam – Chủ nhiệm dự án cho biết, lần đầu tiên, công nghệ chỉ thị phân tử được áp dụng đồng bộ trong lai tạo giống sắn. Nhờ đó, có thể phát hiện gen kháng bệnh, gen quy định hàm lượng tinh bột, giúp chọn tạo giống nhanh và chính xác hơn. Tại vùng lai Lâm Đồng, hàng trăm tổ hợp lai được tạo ra giữa các giống kháng bệnh quốc tế và giống bản địa. Nhờ kỹ thuật chiếu sáng đỏ, cây sắn ra hoa đồng thời – điều kiện hiếm có trước đây. Từ đó, hàng chục dòng con lai triển vọng được đưa vào khảo nghiệm ở Tây Ninh, Yên Bái, Phú Thọ.
Kết quả bước đầu cho thấy, nhiều dòng đạt năng suất 45–50 tấn/ha, hàm lượng tinh bột đạt 26–27% và kháng tốt virus khảm lá sắn.
“Những dữ liệu này mở đường cho việc chọn giống sắn kháng bệnh thế hệ mới, có thể thương mại hóa trong vài năm tới. Không chỉ dừng lại ở tạo giống, dự án còn góp phần xây dựng nền tảng khoa học cho sự phát triển bền vững của ngành sắn Việt Nam. “Nếu biết trả lại cho đất những gì cây lấy đi, cây sắn hoàn toàn có thể phát triển bền vững, như minh chứng tại Tây Ninh và Tây Nguyên, Kết quả bước đầu không chỉ mở ra hướng đi mới cho ngành sắn Việt Nam trong việc chủ động nguồn giống kháng bệnh, đóng vai trò lớn trong xuất khẩu nông sản và sinh kế của hàng triệu nông hộ trên cả nước GS.TS. Lê Huy Hàm nhấn mạnh.

Nông dân xã Tân Hội, tỉnh Tây Ninh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất cây sắn.
Trên thực tế, mô hình khảo nghiệm tại Tây Ninh đã mang lại kết quả rõ rệt. Anh Đặng Minh Tiến (ngụ xã Tân Hội) người tham gia trồng khảo nghiệm các giống sắn mới cho biết, giống sắn mới khỏe, lá xanh quanh năm, kháng bệnh rõ rệt. Bình quân đạt 45 tấn/ha, cao hơn giống cũ 15–20 tấn. Chi phí phân bón và thuốc giảm gần một nửa.
Cũng tại Tây Ninh, giống HL-RS15 – sản phẩm hợp tác giữa Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc và các viện chuyên ngành – đang được đánh giá là giống chủ lực của giai đoạn mới. Bà Phạm Thị Nhạn, Phó Giám đốc Trung tâm Hưng Lộc, cho biết, giống sắn HL-RS15 kháng bệnh khảm lá đến 100%, năng suất đạt 40–45 tấn/ha, hàm lượng tinh bột đạt 28–31%. Cây khỏe, chịu hạn tốt và dễ canh tác. Giống này có thể giúp khôi phục vùng nguyên liệu Tây Ninh sau nhiều năm bị thiệt hại. Hiện, trạm Khuyến nông Tân Châu (Tay Ninh) đã nhân rộng hơn 10 ha HL-RS15 trong vụ Hè Thu 2025, dự kiến mở rộng 100 ha trong năm tới, phục vụ sản xuất đại trà.
Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu, sau ba năm thực hiện, dự án đã tuyển chọn được hơn 10 dòng sắn triển vọng có năng suất 45-50 tấn/ha, hàm lượng tinh bột đạt 26-27%, và đặc biệt là kháng tốt bệnh khảm lá - loại virus nguy hiểm đã khiến hàng chục giống sắn truyền thống bị “xóa sổ” những năm gần đây.

Giống sắn mới có khả năng kháng bệnh khảm là được trồng thử nghiệm tại huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh cho năng suất cao.
Ngành sắn trước ngã rẽ bền vững hay tụt hậu
Ông Lê Hữu Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Sắn Việt Nam, cho biết, Việt Nam hiện có hơn 150 nhà máy chế biến tinh bột sắn, công suất khoảng 20 triệu tấn củ/năm, nhưng nguồn nguyên liệu chỉ đáp ứng một nửa. Tình trạng thiếu nguyên liệu khiến nhiều nhà máy phải nhập sắn từ Campuchia, Lào, làm giảm lợi nhuận và tính cạnh tranh. Theo ông Hùng, ngành sắn Việt Nam đang đối diện nguy cơ mất cân bằng giữa chế biến và sản xuất. Nếu không nhanh chóng tái cơ cấu giống và vùng trồng, ngành sắn sẽ khó giữ được kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD/năm.
Ông Nguyễn Đình Xuân, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh cho biết, toàn tỉnh hiện có 60.000 ha sắn, duy trì ổn định trong suốt nhiều năm, với hơn 20.000 hộ dân sống nhờ cây sắn. Hiện, Tây Ninh là trung tâm chế biến sắn lớn nhất cả nước, công suất các nhà máy gấp 3–4 lần sản lượng trong tỉnh. Nguồn nguyên liệu không chỉ đến từ nông dân Tây Ninh mà còn từ các tỉnh lân cận, thậm chí từ Campuchia.

Các giống sắn mới cho năng suất cao được nông dân thu hoạch tại cánh đồng sắn xã Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Để giải quyết tình trạng thiếu hụt sắn cũ phục vụ cho sản xuất, Tây Ninh đã phối hợp với Viện Di truyền Nông nghiệp triển khai các khu thực nghiệm tại xã Dương Minh Châu và Tân Châu, phục vụ nghiên cứu và khảo nghiệm các giống sắn mới có khả năng kháng bệnh, năng suất cao, hàm lượng tinh bột tốt và thích nghi điều kiện khí hậu địa phương.Chiến lược lâu dài là không chỉ giữ năng suất mà phải nâng giá trị bằng công nghệ chế biến sâu – ethanol sinh học, vật liệu phân hủy sinh học, phụ gia dược phẩm. Khi sản phẩm sắn trở thành nguyên liệu công nghiệp xanh, ngành sắn Việt Nam sẽ có vị thế mới trên thị trường quốc tế.
Ông Doãn Văn Chiến, Trưởng Văn phòng thường trực phía Nam – Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, đánh giá, tái thiết ngành sắn không thể chỉ dựa vào giống mới, mà cần chuỗi giá trị đồng bộ. Phải có liên kết chặt giữa người trồng, nhà máy và nhà khoa học. Khi nông dân được hỗ trợ kỹ thuật, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm và Nhà nước tạo hành lang chính sách ổn định, cây sắn sẽ trở thành cây làm giàu chứ không còn là cây cứu đói, mô hình liên kết “4 nhà” đã chứng minh hiệu quả doanh nghiệp trở thành đối tác đồng hành, chia sẻ rủi ro và lợi ích với người trồng. Ở Việt Nam, các mô hình “cánh đồng sắn lớn”, “chuỗi liên kết bền vững” tại Tây Ninh, Phú Yên, Kon Tum đang phát huy tác dụng giúp người dân có thu nhập ổn định, doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu lâu dài.

Hoạt động sản xuất tinh bột sắn tại xã Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
Theo TS. Đinh Công Chính, Phó Trưởng phòng Cây lương thực – Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, để phát triển cây sắn theo hướng bền vững, cần tập trung vào bốn yếu tố then chốt gồm: trồng đúng thời vụ, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật chăm sóc, tăng cường dinh dưỡng đất – đầu tư thâm canh và đảm bảo nguồn nước tưới hợp lý. Khi các giải pháp này được áp dụng đồng bộ, năng suất bình quân sắn có thể tăng từ 20,3 tấn/ha lên 23–25 tấn/ha, đưa sản lượng toàn quốc đạt khoảng 11,5–12 triệu tấn củ tươi mỗi năm, đồng thời nâng cao đáng kể hàm lượng tinh bột trong củ sắn, tạo tiền đề quan trọng cho ngành sắn phát triển hiệu quả và bền vững hơn.
Khi nông dân trở thành chủ thể, doanh nghiệp coi trọng lợi ích cộng đồng và Nhà nước định hướng phát triển xanh – cây sắn sẽ tiếp tục khẳng định được vị thế là “ngành hàng tỷ đô” của nông nghiệp Việt Nam./.

Diện tích sắn ứng dụng giống mới tại xã Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.