Sóc Trăng vài nét tổng quan

Sóc Trăng vài nét tổng quan

1. Vị trí địa lý

Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh 231km, cách Cần Thơ 62km; nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang.

- Vị trí tọa độ: 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh Đông.

- Diện tích tự nhiên 3.311,7629 km2 (chiếm khoảng 1% diện tích cả nước và 8,3% diện tích của khu vực đồng bằng sông Cửu Long).

- Đường bờ biển dài 72 km và 03 cửa sông lớn: Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông.

- Tỉnh có địa giới hành chính tiếp giáp như sau:

+ Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang;

+ Phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu;

+ Phía Đông Bắc giáp tỉnh Trà Vinh;

+ Phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông.

2. Điều kiện tự nhiên Về khí hậu:

Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng gió mùa, hàng năm có mùa khô và mùa mưa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,80C, ít khi bị bão lũ. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung nhất từ tháng 8,9,10, độ ẩm trung bình là 83%, thuận lợi cho cây lúa và các loại hoa màu phát triển.

Về đất đai, thổ nhưỡng:

Sóc Trăng có tổng diện tích đất tự nhiên là 331.176,29 ha. Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp, các loại rau màu như hành, tỏi và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài, sầu riêng...

Hiện đất nông nghiệp là 276.677 ha, chiếm 82,89%; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp là 205.748 ha (chiếm 62,13%), đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha (chiếm 3,43%), đất nuôi trồng thuỷ sản 54.373 ha (chiếm 16,42%), đất làm muối và đất nông nghiệp khác chiếm 0,97%.

Trong tổng số 278.154 ha đất nông nghiệp có 144.156 ha sử dụng cho canh tác lúa, 21.401 ha cây hàng năm khác và 40.191 ha dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái. Riêng đất phi nông nghiệp là 53.963 ha và 2.536 ha đất chưa sử dụng (số liệu được cập nhật theo Niên giám thống kê Sóc Trăng 2008).

Đất đai Sóc Trăng có thể chia thành 6 nhóm chính: Nhóm đất cát có 8.491 ha, bao gồm các giồng cát tương đối cao từ 1,2 - 2 m thành phần cơ giới nhẹ, chủ yếu là cát mịn đến cát pha đất thịt, có thể trồng một số loại rau màu; nhóm đất phù sa có 6.372 ha thích hợp cho việc trồng lúa tăng vụ và các cây ăn trái đặc sản, nhóm đất giây có 1.076 ha, ở vùng thấp, trũng, thường trồng lúa một vụ; nhóm đất mặn có 158.547 ha có thể chia ra làm nhiều loại: đất mặn nhiều, đất mặn trung bình, đất mặn ít, đất mặn sú, vẹt, đước (ngập triều) trong đó đất mặn nhiều chiếm diện tích lớn 75.016 ha thích hợp với việc trồng lúa, rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn, dài ngày...; các loại đất mặn khác chủ yếu trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản; nhóm đất phèn có 75.823 ha, trong đó chia ra làm 2 loại đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng, sử dụng loại đất này theo phương thức đa canh, trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản; nhóm đất nhân tác có 46.146 ha.

Mặc dù còn một số hạn chế về điều kiện tự nhiên như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn trong mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú.

Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng, Cù Lao Dung... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.

Về đặc điểm địa hình:

Sóc Trăng có địa hình thấp và tương đối bằng phẳng. Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5 m, độ dốc thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài. Nhìn chung địa hình tỉnh Sóc Trăng có dạng lòng chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông thấp dần vào trong, vùng thấp nhất là phía Tây và Tây Bắc. Tiểu địa hình có dạng gợn sóng không đều, xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những vùng thấp trũng nhiễm mặn, phèn. Đó là những dấu vết trầm tích của thời kỳ vận động biển tiến và lùi tạo nên các giồng cát và các bưng trũng ở các huyện Mỹ Tú, thị xã Sóc Trăng, Mỹ Xuyên, Long Phú, Vĩnh Châu. Vùng đất phèn có địa hình lòng chảo ở phía Tây và ven kinh Cái Côn có cao trình rất thấp, từ 0 - 0,5 m, mùa mưa thường bị ngập úng làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân trong vùng. Vùng cù lao trên sông Hậu cũng có cao trình thấp, thường bị ngập khi triều cường, vì vậy để đảm bảo sản xuất phải có hệ thống đê bao chống lũ.

Về sông ngòi: Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hường của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.

Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông Nam bộ, vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để cũng như phát triển kinh tế biển tổng hợp.

Về tài nguyên rừng và biển: Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với diện tích 11356 ha với các loại cây chính: Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước phân bố ở 4 huyện Vĩnh Châu, Long Phú, Mỹ Tú và Cù Lao Dung. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn. Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 02 cửa sông lớn là sông Hậu (đổ theo 02 con sông lớn Trần Đề, Định An) và sông Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thuỷ hải sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá, dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.

3. Dân cư Dân cư Sóc Trăng chủ yếu là ba dân tộc Kinh (836.513 người, chiếm 65,16%), Khmer (371.305 người, chiếm 28,92%), Hoa (75.534 người, chiếm 5,88%) đã cùng chung sức khai phá, xây dựng và bảo vệ vùng đất này. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử, ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm ngày càng được củng cố bền vững. Tinh thần yêu nước của nhân dân Sóc Trăng được thể hiện ngay từ buổi khai phá, mở mang vùng đất mới đã anh dũng chiến đấu chống lại bọn cướp biển Java (nay là Indonesia), quân xâm lược Xiêm La (nay là Thái Lan), giữ gìn xóm làng quê hương, bảo vệ mồ mả ông bà tổ tiên. Cùng với nghĩa quân Tây Sơn đánh 05 vạn quân Xiêm (do Nguyễn Ánh cầu viện) xâm lược nước ta, làm nên chiến thắng lịch sử ở Rạch Gầm - Xoài Mút.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát dâng ba tỉnh miền Đông, rồi dâng ba tỉnh miền Tây Nam kỳ cho giặc Pháp. Nhân dân Sóc Trăng cùng với nhân dân lục tỉnh đã kiên cường tham gia phong trào khởi nghĩa chiến đấu chống giặc Pháp do các sỹ phu yêu nước lãnh đạo như Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực...

Không chỉ bằng những cuộc đấu tranh chống giặc, nhân dân Sóc Trăng còn tham gia những cuộc vận động yêu nước, vận động chính trị để giành độc lập cho dân tộc. Phòng trào yêu nước do cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh khởi xướng đã lan rộng đến Sóc Trăng. Hội kín “Thiên địa hội” xuất hiện ở ngay thị xã Sóc Trăng. Các phong trào vận động yêu nước đó đã khơi dậy thể hiện truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta để lại.

Phát huy truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh, nhân dân Sóc Trăng đã làm nên những chiến thắng vẻ vang qua các chặng đường lịch sử, đặc biệt đã vùng lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, điển hình là cuộc nổi dậy của quân dân Hòa Tú chống lại thực dân Pháp và bọn tay sai. Tuy cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị địch khủng bố đẩm máu nhưng nhân dân Sóc Trăng vẫn giữ vững niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, cùng với cả nước làm cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Bước vào cuộc kháng chiến 09 năm chống thực dân Pháp xâm lược với sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc và tinh thần chiến đấu ngoan cường, nhân dân Sóc Trăng đã góp phần cùng cả nước đánh thắng kẻ thù hung bạo, buộc thực dân Pháp phải rút khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1954, hòa bình lặp lại chưa được bao lâu, đế quốc Mỹ lại tiếp tục can thiệp và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Mặc dù kẻ thù lần này tàn bào, nguy hiểm, vũ khí hiện đại gấp nhiều lần so với trước. Nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng và ý chí kiên cường, nhân dân Sóc Trăng một lần nữa cùng cả nước đứng lên quyết chiến đấu, không sợ hy sinh gian khổ, người trước ngã, người sau xông tới tiêu diệt quân thù, thực hiện lời Bác dạy “Không có gí quý hơn độc lập tự do” suốt 21 năm đã làm nên chiến thắng vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam và quê hương Sóc Trăng ngày 30/4/1975.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủa nghĩa. Cùng với cả nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trải qua bao thăng trầm biến cố và phát triển của lịch sử, các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng đã có mối quan hệ gắn bó huyết thống, xây dựng nên tinh thần thân ái, đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, tôn trọng nhau trong sinh hoạt, phong tục tập quán, tự do tín ngưỡng.v.v... tạo nên cuộc sống hài hòa về kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng các dân tộc. Đặc biệt, trong quan hệ giao tiếp, người dân lao động ở đây còn thể hiện đức tính quý trọng nhân nghĩa, thẳng thắn, bộc trực, sống hào phóng, giản dị, tình cảm mộc mạc chân thành, đó là bản tính truyền thống của người dân Nam bộ nói chung và người dân Sóc Trăng nói riêng.

Theo soctrang.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Từ ngày 22/10, tỉnh Lâm Đồng bắt đầu triển khai thực hiện Kế hoạch Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030. Kế hoạch nhằm xây dựng, phát triển hạ tầng dữ liệu đồng bộ, thống nhất, đảm bảo khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương, tạo nền tảng cho phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Tại tỉnh Cà Mau, có một thời năn bộp được xem là loài cỏ dại ngự trị trên các cánh đồng, nông dân ai nhìn thấy cũng đều thở dài ngao ngán, vì tốn rất nhiều công sức để phá bỏ, cải tạo trồng lúa. Nhưng đó là câu chuyện của ngày trước, năn bộp giờ đây đã được trồng, chăm sóc, xây dựng thương hiệu sản phẩm OCOP mang lại thu nhập cho nông dân cao hơn hẳn so với trồng lúa.

Sạt lở bờ sông Thao diễn biến phức tạp

Sạt lở bờ sông Thao diễn biến phức tạp

Theo ghi nhận của phóng viên ngày 22/10, trên tuyến đê hữu sông Thao, thuộc địa phận khu 9 đến khu 11 xã Tam Nông (Phú Thọ), tình trạng sạt lở, sụt trượt mái bờ sông đang diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa an toàn tuyến đê, đất sản xuất và khu dân cư ven sông.

Nối dài những căn nhà mơ ước cho người dân vùng biên Quảng Trực, Lâm Đồng

Nối dài những căn nhà mơ ước cho người dân vùng biên Quảng Trực, Lâm Đồng

Dù tỉnh Lâm Đồng đã hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, nhưng việc hiện thực hóa những căn nhà mơ ước của người dân xã biên giới Quảng Trực vẫn được “nối dài”. Thông qua chương trình hỗ trợ xóa nhà tạm do Công an tỉnh Lâm Đồng triển khai, nhiều hộ dân đã có nơi ở ổn định, thêm động lực vươn lên phát triển kinh tế, góp phần giữ vững an ninh, trật tự nơi biên cương của Tổ quốc.

Lễ dâng y Kathina 2025 của đồng bào Khmer Nam Bộ

Lễ dâng y Kathina 2025 của đồng bào Khmer Nam Bộ

Hàng năm, theo truyền thống Phật giáo Nam tông Khmer, sau mỗi mùa an cư kiết hạ, các chùa Khmer tại các tỉnh, thành phố Nam Bộ lại tổ chức lễ dâng y Kathina. Đây là dịp để Phật tử dâng y cà sa lên chư Tăng đã hoàn mãn ba tháng nhập hạ. Đặc biệt, nghi lễ này chỉ diễn ra trong vòng một tháng kể từ ngày mãn hạ, mỗi chùa chỉ tổ chức thọ y một lần duy nhất theo giới luật.

Mô hình nuôi hươu ở bản Na Hai góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao Điện Biên

Mô hình nuôi hươu ở bản Na Hai góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao Điện Biên

Với vai trò là Bí thư Chi bộ, ông Nguyễn Đình Kiên ở xã Sam Mứn (tỉnh Điện Biên) không chỉ sâu sát địa bàn, thường xuyên tuyên truyền người dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà còn tiên phong trong việc thay đổi tư duy sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế.

Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông

Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông

Ngày 21/10, tại Sư đoàn 320, Quân đoàn 34 (xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai), Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo Ban Thanh niên Quân đội phối hợp với Cục Chính trị Quân đoàn 34, Cục Chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc, Phòng Chính trị Binh đoàn 15, Công an tỉnh Gia Lai và Tỉnh đoàn Gia Lai tổ chức Ngày hội “Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông” năm 2025.

Phú Thọ: Khẩn trương xử lý tình trạng đá rơi trên đèo Thung Khe

Phú Thọ: Khẩn trương xử lý tình trạng đá rơi trên đèo Thung Khe

Đèo Thung Khe trên tuyến Quốc lộ 6, đoạn qua địa bàn xã Mai Châu, tỉnh Phú Thọ, từ lâu được xem là cung đường hiểm trở với địa hình đặc biệt nguy hiểm: một bên là vách núi đá dựng đứng với nhiều khối đá lớn, nhỏ nằm chênh vênh, tiềm ẩn nguy cơ sạt lở bất cứ lúc nào; một bên là vực sâu, tầm nhìn hạn chế nhất là vào thời điểm sương mù dày đặc.

Bộ đội Biên phòng Gia Lai huy động lực lượng ứng phó với bão số 12

Bộ đội Biên phòng Gia Lai huy động lực lượng ứng phó với bão số 12

Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai cho biết, đơn vị đã chỉ đạo các Đồn Biên phòng phối hợp với chính quyền địa phương thông báo cho tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển biết vị trí, hướng di chuyển của bão số 12; tổ chức rà soát, kiểm đếm tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển để chủ động tránh trú.

Các xã biên giới tỉnh Tuyên Quang tái thiết mạnh mẽ sau thiên tai

Các xã biên giới tỉnh Tuyên Quang tái thiết mạnh mẽ sau thiên tai

Sau đợt mưa lớn do hoàn lưu bão số 10 và bão số 11 đầu tháng 10/2025, hai xã biên giới Thanh Thủy và Lao Chải (Tuyên Quang) là những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề. Đến thời điểm này, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền cùng tinh thần đoàn kết, tự lực của người dân, diện mạo vùng biên đang dần hồi sinh, đời sống sinh hoạt và sản xuất trở lại ổn định.

Hết lòng vì sự nghiệp giáo dục nơi biên giới Tây Ninh

Hết lòng vì sự nghiệp giáo dục nơi biên giới Tây Ninh

Trên dải đất biên giới đầy nắng gió của xã Tân Hòa (tỉnh Tây Ninh), nơi những thầy cô đang ngày ngày miệt mài gieo từng con chữ, thắp sáng ước mơ cho con em vùng biên. Với họ, việc dạy học không chỉ là trách nhiệm nghề nghiệp mà còn là hành trình gieo niềm tin rằng tri thức sẽ mở ra con đường đổi thay cho vùng biên hôm nay và mai sau.

Kết nối, tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi

Kết nối, tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi có hơn 2,1 triệu dân, trong đó 25% dân số là người dân tộc thiểu số. Địa phương luôn xác định công tác kết nối, hỗ trợ tạo việc làm cho lao động là đồng bào dân tộc thiểu số góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân và thúc đẩy giảm nghèo bền vững.

Tiềm năng nghề nuôi dê thịt, dê sữa ở những vùng đất khó

Tiềm năng nghề nuôi dê thịt, dê sữa ở những vùng đất khó

Cụ thể hóa mục tiêu tổ chức lại sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai, hiện nay, nông dân những địa bàn khó khăn (tỉnh Đồng Tháp) như: vùng ven biển Gò Công, vùng kiểm soát lũ đầu nguồn sông Tiền, vùng Đồng Tháp Mười, các xã cù lao nhiễm mặn hạ lưu sông Tiền… đang phát triển nghề nuôi dê thịt, dê sữa nhằm tăng thu nhập cho kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và an cư lạc nghiệp.

Tăng cường dạy Tiếng Việt, giúp học sinh vùng dân tộc thiểu số tự tin giao tiếp

Tăng cường dạy Tiếng Việt, giúp học sinh vùng dân tộc thiểu số tự tin giao tiếp

Lâm Đồng là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 683.000 người, chiếm 17,6% dân số. Với mong muốn giúp các em nhỏ vùng cao tự tin hơn khi đến trường, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức, những năm qua, ngành Giáo dục Lâm Đồng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”, mang lại những chuyển biến tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền.

Thấp thỏm khi sạt lở bủa vây khu tái định cư Đưng K’Nớ

Thấp thỏm khi sạt lở bủa vây khu tái định cư Đưng K’Nớ

Khu tái định cư thôn K’Nớ 5 nằm sát bên tuyến đường Đông Trường Sơn hiện có 73 hộ dân sinh sống ổn định khoảng 3-4 năm qua. Theo người dân, tình trạng sạt lở chỉ xuất hiện từ mùa mưa năm nay và mỗi ngày càng thêm trầm trọng hơn.