Trà Vinh vài nét tổng quan

Trà Vinh vài nét tổng quan
1. Vị trí địa lý

- Phía Đông giáp Biển Đông;

- Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long;

- Phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng;

- Phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre.

- Diện tích tự nhiên: 2.341 km2, được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cung Hầu và Định An, có 65 km bờ biển nên giao thông đường thủy có điều kiện phát triển.

2. Điều kiện tự nhiên

- Thời tiết, khí hậu: Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 26 – 270C, độ ẩm trung bình 83 - 85%/năm, lượng mưa trung bình 1.500 mm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ và rất thuận lợi cho đầu tư, sản xuất kinh doanh.

- Diện tích đất: Tỉnh có 234.115 ha. Trong đó, đất nông nghiệp: 185.868 ha, đất lâm nghiệp: 6.745 ha, đất chuyên dùng: 12.880 ha, đất ở nông thôn: 3.845 ha, đất ở thành thị: 566 ha, đất chưa sử dụng: 900 ha, trong đó có đất cát giồng chiếm 6,62%.

+ Diện tích rừng là 6.745 ha, nằm dọc bờ biển tại các huyện: Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú với các loại cây như: bần, đước, mắm, dừa nước, chà là,… đất bãi bồi: 1.138 ha.

+ Diện tích đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản khoảng 51.600 ha (diện tích nuôi tôm sú 29.000 ha).

- Khoáng sản:

Khoáng sản chủ yếu là những loại cát dùng trong công nghiệp và xây dựng, gồm:

+ Cát sông: có khả năng khai thác khoảng 60.000m3/năm

+ Đất sét gạch ngói: được Phân viện nghiên cứu địa chất công nhận là đạt yêu cầu dùng trong xây dựng, phục vụ cho công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng. Trữ lượng: khoảng 45,6 triệu m3

+ Mỏ nước khoáng: đạt tiêu chuẩn khoáng cấp quốc gia với nhiệt độ: 38,50C, khả năng khai thác khoảng 2.400 m3/ngày tại xã Long Toàn, huyện Duyên Hải.

3. Lịch sử hình thành
Trải qua những thăng trầm vì bị chi phối bởi những quy luật kiến tạo địa chất cùng những lần "biển tiến, biển lùi", vùng đất có tên gọi "Trà Vang" - tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã được hình thành từ lâu đời. Vào thời kỳ đó, Trà Vinh vẫn còn là một vùng đất rất hoang vu, các loại cây rừng trùm lên những giồng đất, những đầm lầy và sông rạch chằng chịt, dân cư thưa thớt.

Vào thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia….trong bối cảnh chung của thế giới đã không tránh khỏi sự khủng hoảng và suy yếu. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627-1673) đã chia cắt đất nước thành hai xứ: Đàng trong và Đàng ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới). Điều này đã làm cho hàng vạn nông dân lâm vào thảm họa bị tiêu diệt, phải đi tìm cõi sống ở Phương Nam.

Trước thực tế khách quan đó, vào cuối thế kỷ thứ XVII, các Chúa Nguyễn đã chủ động tổ chức di dân người Việt vào vùng đất Nam bộ, thực thi những chính sách chiêu mộ lưu dân và đưa quân đội vào Nam khai phá đất đai. Cùng với người Việt và người Khmer, người Hoa cũng được Chúa Nguyễn tạo điều kiện để cùng nhau khai phá và định cư trên vùng đất phía Nam này, trong đó có vùng đất Trà Vinh.

Như vậy, vùng đất Trà Vinh, con đẻ của Biển Đông và sông Cửu Long, một vùng đất chứa đựng một hệ sinh thái đa dạng cùng với nhiều tiềm năng kinh tế khác nhau, vào thế kỷ thứ XVII đã có chủ nhân là một cộng đồng dân cư đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa…). Sự hình thành một cộng đồng dân cư đa dân tộc trên vùng đất này là một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại đối với sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh sau này.

Tỉnh Trà Vinh là địa bàn cộng cư của 3 dân tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân tộc khác. Trong đó, người Kinh có tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu dân số của tỉnh với 684.119 người chiếm 67,5% dân số của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh Trà Vinh còn là nơi có đồng bào Khmer sinh sống đông thứ 2 ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng như cả nước sau tỉnh Sóc Trăng. Đồng bào Khmer ở Trà Vinh có 320.292 người (chiếm 31,63%). Bên cạnh đó còn có người Hoa và một số đồng bào khác như Chăm, Dao…có tổng số là 8.237 người chiếm 0,81% dân số của tỉnh.
Sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh có thể được chia thành 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: từ năm 1732 đến năm 1900.

Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.

Năm 1802, sau khi lên ngôi, Vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.

Năm 1803, Vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.

Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh  Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.

Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.

Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.

Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer ký nghị định đổi tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Từ đây Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành 3 tỉnh mới: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. Nghị định này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1900. từ đây, tên tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức trên các văn bản tiếng Pháp là Province de Trà Vinh.

Giai đoạn 2: từ năm 1900 đến năm 1992.

Từ 1/1/1900, tên gọi tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức cho đến tháng 5/1951, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục , Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ đã ban hành Nghị định số 174/NB-51 ngày 27/6/1951 về việc sáp nhập 20 tỉnh Nam Bộ thành 11 tỉnh. Theo đó, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập lại thành 1 tỉnh Vĩnh Trà.

Từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ - Diệm đã tiến hành phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh miền Nam. Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, hai huyện Cầu Kè và Tiểu Cần được tách ra, ghép với hai huyện Trà Ôn và Tam Bình của Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Tam Cần (theo Sắc lệnh số 16-NV ngày 9/2/1956) và tách một phần đất của huyện Cầu Ngang để thành lập một quận mới là quận Long Toàn (theo Sắc lệnh số 143-NV ngày 22/10/1956). Đầu năm 1957, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình. Tỉnh Tam Cần thành lập được gần một năm thì giải thể, ba quận của tỉnh Tam Cần và quận Vũng Liêm (của tỉnh Vĩnh Long) được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Bình (theo Nghị định số 3-ND/HC/ND ngày 3/1/1957).

Thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam Việt Nam; tháng 2/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo nghị định này ở miền Nam có 21 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập thành tỉnh Cửu Long.

Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VIII đã ra quyết định tách tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Ngày 5/5/1992 tỉnh Trà Vinh chính thức đi vào hoạt động và phát triển cho đến ngày nay.

Theo travinh.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Gia Lai tăng cường an toàn tại lối đi tự mở băng qua đường sắt

Gia Lai tăng cường an toàn tại lối đi tự mở băng qua đường sắt

Hiện tuyến đường sắt đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai dài khoảng 146,8 km, gồm 2 tuyến chính là tuyến Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh dài 136,5 km và tuyến Ga Diêu Trì – Ga Quy Nhơn dài 10,3 km. Tuyến đường sắt đi qua tỉnh Gia Lai với 11 xã và 12 phường. Trên dọc tuyến có 66 đường ngang; trong đó, 24 đường ngang có gác, 41 đường ngang có cảnh báo tự động và 1 đường ngang phòng vệ biển báo, cùng 77 lối đi tự mở hình thành do người dân sử dụng trước đây và toàn bộ các lối đi này đều đã được lắp đặt biển báo “Chú ý tàu hỏa” theo quy định.

Mô hình liên kết '4 nhà': Bước ngoặt để ngành sắn phát triển bền vững

Mô hình liên kết '4 nhà': Bước ngoặt để ngành sắn phát triển bền vững

Sau những năm lao đao vì bệnh khảm lá, cây sắn – “cây cứu đói” của những thập niên trước đang được hồi sinh mạnh mẽ trên nhiều vùng đất. Nhờ thành tựu khoa học trong chọn tạo giống kháng bệnh và sự vào cuộc đồng bộ của “bốn nhà” (Nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nông dân), ngành sắn Việt Nam đang đứng trước cơ hội mới: tái thiết vùng nguyên liệu, nâng giá trị chế biến và phát triển bền vững.

Tuyên Quang trồng rừng vượt kế hoạch năm 2025

Tuyên Quang trồng rừng vượt kế hoạch năm 2025

Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang, đến thời điểm này, toàn tỉnh đã trồng được trên 14.000 ha rừng, đạt 109% kế hoạch; trong đó, rừng phòng hộ và đặc dụng trên 177 ha, rừng sản xuất 13.833 ha.

Thái Nguyên khôi phục sản xuất sau mưa bão

Thái Nguyên khôi phục sản xuất sau mưa bão

Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 11 (bão MATMO), trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã xảy ra mưa lớn trên diện rộng, gây ngập úng và thiệt hại đến sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ cao phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản.

Tuổi trẻ vùng biên sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc

Tuổi trẻ vùng biên sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc

Chuẩn bị cho mùa tuyển quân năm 2026, đến nay, các địa phương ở Gia Lai đã triển khai rà soát, chốt thực lực, xét duyệt chính trị cho đến công tác tuyên truyền, vận động. Công tác sơ tuyển sức khỏe, miễn, tạm hoãn được thực hiện chặt chẽ; 15 điểm giao nhận quân và 19 hội đồng khám sức khỏe đã được khảo sát, chuẩn bị đầy đủ điều kiện. Nhờ vận dụng linh hoạt, chặt chẽ, đúng quy định trong công tác tuyển quân, tỉnh Gia Lai đã và đang thực hiện hiệu quả việc khơi dậy tinh thần tình nguyện nhập ngũ của thanh niên.

Xuyên đại ngàn Pù Huống hỗ trợ bản Na Ngân còn bị cô lập

Xuyên đại ngàn Pù Huống hỗ trợ bản Na Ngân còn bị cô lập

Sau trận lũ ống, lũ quét xảy ra vào ngày 29/9, đến nay, bản Na Ngân nằm giữa đại ngàn Pù Huống, cách trung tâm xã Nga My (Nghệ An) hơn 20 km vẫn bị cô lập do tuyến đường độc đạo, huyết mạch xuyên rừng, men theo lưng núi Pù Hiêng còn điểm sạt lở vách núi nghiêm trọng chưa được khắc phục.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Người dân vùng lũ Thanh Hóa sớm khôi phục sản xuất

Người dân vùng lũ Thanh Hóa sớm khôi phục sản xuất

Sau những ngày gồng mình chống chọi với thiên tai, bão lũ, người dân tại nhiều xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đang từng bước quay lại nhịp sống thường ngày. Người dân vùng lũ đang tập trung khắc phục hậu quả thiên tai để sớm tái thiết, ổn định cuộc sống.

Phá thế cô lập nhiều ngày sau mưa lớn, lũ dữ ở Na Kho

Phá thế cô lập nhiều ngày sau mưa lớn, lũ dữ ở Na Kho

Rạng sáng 29/9, trận lũ ống, lũ quét xảy ra trên địa bàn xã Nga My (tỉnh Nghệ An) đã gây thiệt hại nặng nề đối với địa bàn xã nghèo này. Ngoài thiệt hại về kinh tế, giao thông, hệ thống thủy lợi, nhà cửa, mưa lũ đã gây sạt lở núi nghiêm trong, làm cô lập nhiều bản làng vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nhiều ngày.

Nhận diện rào cản để giúp người dân vùng cao tiếp cận chuyển đổi số

Nhận diện rào cản để giúp người dân vùng cao tiếp cận chuyển đổi số

Tại các vùng cao, vùng khó của tỉnh Quảng Trị, việc chuyển đổi số để xây dựng chính quyền điện tử vẫn còn nhiều rào cản rất lớn. Chính quyền các địa phương đang nỗ lực khắc phục khó khăn, tháo gỡ các điểm nghẽn trong chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Sau lũ dữ, người Ơ Đu hỗ trợ nhau di chuyển nhà ra khỏi nơi sạt lở suối Nậm Ngân

Sau lũ dữ, người Ơ Đu hỗ trợ nhau di chuyển nhà ra khỏi nơi sạt lở suối Nậm Ngân

Đồng bào dân tộc Ơ Đu là một trong 10 dân tộc ít người nhất của cả nước. Tại tỉnh Nghệ An, người Ơ Đu tập trung sinh sống ở bản Văng Môn (xã Nga My) với hơn 100 hộ, hơn 340 nhân khẩu. Trong ngày 29/9 vừa qua, mưa lớn, lũ cường suất mạnh, dâng nhanh trên suối Nậm Ngân đã gây ngập lụt nhiều ngôi nhà trong bản với mực nước từ 0,5 đến gần 1m.

Điện lực Lạng Sơn dồn lực sớm cấp điện cho khách hàng sau bão lũ

Điện lực Lạng Sơn dồn lực sớm cấp điện cho khách hàng sau bão lũ

Mưa lớn kéo dài do ảnh hưởng hoàn lưu bão số 11 khiến hệ thống cấp điện sinh hoạt, sản xuất của ngành điện thiệt hại nặng. Ngành điện lực Lạng Sơn đã triển khai các giải pháp để cấp điện trở lại phục vụ khôi phục sản xuất, sinh hoạt cho khách hàng được an toàn sau lũ lụt.

Hỗ trợ người dân vùng lũ Thanh Hóa tái thiết sản xuất

Hỗ trợ người dân vùng lũ Thanh Hóa tái thiết sản xuất

Chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão số 10 và hoàn lưu sau bão, nhiều địa phương ở Thanh Hóa bị ngập lụt, sạt lở nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng.

Tiếp sức cho học sinh vùng cao Quảng Ngãi đến trường

Tiếp sức cho học sinh vùng cao Quảng Ngãi đến trường

Năm học 2025 - 2026, tại nhiều trường học ở khu vực phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, các thầy cô giáo đã nỗ lực khắc phục khó khăn với những cách làm sáng tạo góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, duy trì sĩ số lớp học.

'Vòng tay bình an' cho vùng đất Thái Nguyên

'Vòng tay bình an' cho vùng đất Thái Nguyên

Giữa lũ dữ, tinh thần đoàn kết, sẻ chia và sự chủ động ứng phó của chính quyền, lực lượng hộ đê và nhân dân đã tạo nên “vòng tay bình an” cho vùng đất Thái Nguyên.

Thái Nguyên: Giám sát chặt chẽ, không để bệnh tay - chân - miệng lây lan trong trường học

Thái Nguyên: Giám sát chặt chẽ, không để bệnh tay - chân - miệng lây lan trong trường học

Sáng 9/10, Trung tâm Y tế Bắc Kạn thông báo về việc phát hiện ổ dịch tay - chân - miệng tại Trường Mầm non Đồng Thắng, xã Bạch Thông, tỉnh Thái Nguyên. Lãnh đạo UBND xã ngay trong sáng 9/10 trực tiếp đến trường học nắm bắt tình hình, chỉ đạo các biện pháp xử lý nếu tiếp tục phát hiện ca bệnh mới.

Nước lũ rút, Cao Bằng khẩn trương khắc phục hậu quả, ổn định đời sống người dân

Nước lũ rút, Cao Bằng khẩn trương khắc phục hậu quả, ổn định đời sống người dân

Tính đến 9h sáng nay 9/10, nước lũ cơ bản đã rút khỏi các khu dân cư của tỉnh Cao Bằng, người dân đã có thể trở về nhà, tổ chức khắc phục hậu quả, dọn dẹp, vệ sinh nhà ở và đồ dung gia đình. Chỉ còn một số ít khu dân cư gần bờ sông, người dân vẫn chưa thể về nhà vì nước chưa rút hết.

Tình người và sự sẻ chia trong 'biển nước' Thái Nguyên

Tình người và sự sẻ chia trong 'biển nước' Thái Nguyên

Giữa mênh mông nước lũ, phóng viên Ban biên tập Tin kinh tế, Thông tấn xã Việt Nam đã có mặt tại vùng ngập sâu Thái Nguyên để ghi lại những hình ảnh chân thực về cuộc sống người dân đang oằn mình trong khó khăn. Nơi gần 50 xã, phường chìm trong biển nước, vẫn sáng lên tinh thần tương thân tương ái: chính quyền, lực lượng cứu hộ và các đoàn thiện nguyện kề vai sát cánh, mang đến hơi ấm và niềm tin cho bà con vùng ngập.

Chính quyền cấp xã Cao Bằng bám địa bàn, linh hoạt phòng, chống bão lụt

Chính quyền cấp xã Cao Bằng bám địa bàn, linh hoạt phòng, chống bão lụt

Rút kinh nghiệm từ cơn bão số 10, ngay khi có những thông tin về cơn bão số 11, chính quyền các xã tỉnh Cao Bằng đã đề ra các kịch bản, giải pháp linh hoạt phù hợp với tình hình địa phương và quyết liệt thực hiện các kịch bản đề ra, từ đó giảm được thiệt hại về người và tài sản cho người dân.

Mưa bão gây sập cổng chào xã Đồng Văn

Mưa bão gây sập cổng chào xã Đồng Văn

Do ảnh hưởng của bão số 11 gây mưa lớn kéo dài, sáng 8/10, tại khu vực đầu tuyến đường dẫn vào trung tâm xã Đồng Văn (Tuyên Quang) đã xảy ra sạt lở đất nghiêm trọng, làm sập hoàn toàn công trình Cổng chào xã Đồng Văn. Rất may, thời điểm xảy ra vụ việc không có người qua lại nên không ghi nhận thiệt hại về người.

Cao Bằng trắng đêm chống lũ

Cao Bằng trắng đêm chống lũ

Đêm 7/10, khi người dân tỉnh Cao Bằng vẫn chưa khắc phục xong hậu quả cơn bão số 10 thì lại phải gồng mình chống chọi với cơn lũ lịch sử lớn nhất trong nhiểu thập kỷ qua.

Giữ hồn làng nghề, dựng nghiệp từ những sợi lưới thủ công

Giữ hồn làng nghề, dựng nghiệp từ những sợi lưới thủ công

Làng nghề đan lưới Thơm Rơm là một trong những nghề truyền thống nổi tiếng ở thành phố Cần Thơ, với lịch sử hình thành đã gần 50 năm. Theo đánh giá của chính quyền thành phố, làng nghề hiện đang hoạt động khá sôi nổi, đóng vai trò quan trọng trong việc tăng thu nhập và giảm nghèo hiệu quả cho người dân địa phương.