Là xã có đường biên giới dài nhất của tỉnh Lâm Đồng và thuộc diện vùng sâu, vùng xa, khó khăn, nhưng các cán bộ của UBND xã Quảng Trực lại có nhiều sáng tạo nổi bật trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân.

Chính quyền xã đã chủ động rà soát dữ liệu dân cư, chuẩn bị sẵn giấy xác nhận hộ nghèo để người dân khi làm thủ tục nhập học cho con chỉ cần đến lấy; lập danh sách nơi cư trú của học sinh gửi về các trường học; cập nhật sẵn số liệu của những người đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh để có thể giải quyết thủ tục trong vòng 30 phút cho người dân… Những cách làm sáng tạo trên, thể hiện sự chủ động, chuyên nghiệp trong phục vụ người dân, doanh nghiệp của chính quyền xã Quảng Trực - một chính quyền gần dân, vì dân nơi biên giới tỉnh Lâm Đồng.
Thủ tục nhanh gọn, người dân hưởng lợi nhờ cán bộ sáng tạo

Phóng viên TTXVN có mặt tại xã Quảng Trực sau hơn nửa tháng chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động kể từ ngày 1/7. Điều dễ nhận thấy là điều kiện cơ sở vật chất của UBND xã, đặc biệt là Trung tâm phục vụ hành chính công, còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Khu vực tiếp công dân để giải quyết thủ tục hành chính không có vách ngăn giữa người dân và cán bộ, chỉ là một dãy bàn kê trong căn phòng rộng, tường bong tróc, ẩm mốc. Tuy nhiên, điều gây bất ngờ chính là hiệu quả xử lý công việc. Người dân, chủ yếu là đồng bào M’nông - đến làm thủ tục hành chính đều được giải quyết công việc nhanh chóng. Có người chỉ cần đọc tên đã được nhận giấy tờ và ra về trong vòng vài phút.
Chị Thị Chuyên, 37 tuổi, người M’nông sống tại xã Quảng Trực cho biết, chị đến để lấy Giấy xác nhận hộ nghèo cho con nộp cho nhà trường để được hưởng chính sách hỗ trợ trong năm học mới. Cán bộ giải quyết thủ tục rất nhanh, chỉ cần đọc tên là nhận được giấy, chỉ mất thời gian chờ tới lượt.
Giải đáp thắc mắc của phóng viên về tốc độ giải quyết công việc tại Trung tâm phục vụ hành chính công, ông Nguyễn Văn Anh - Chủ tịch UBND xã Quảng Trực cho biết, một trong những sáng kiến nổi bật của xã là chủ động giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến mùa tựu trường sắp tới.
Là xã vùng 3, Quảng Trực có tỷ lệ cao hộ dân cần xác nhận hộ nghèo, nơi cư trú để học sinh được hưởng các chính sách hỗ trợ khi nhập học đầu năm. Nắm bắt tình hình này, ngay từ cuối tháng 6, cán bộ Trung tâm đã đề xuất và được lãnh đạo xã chấp thuận phương án rà soát dữ liệu dân cư, chuẩn bị sẵn giấy xác nhận hộ nghèo cho các gia đình có con em đi học.
“Người dân tới Trung tâm phục vụ hành chính công chỉ cần đọc họ tên, cán bộ tra cứu và cấp ngay. Làm thế vừa nhanh, vừa hiệu quả, không làm mất thời gian của người dân lẫn cán bộ và gây quá tải tại Trung tâm”, ông Văn Anh nói.
Không dừng lại ở đó, ngày 16/7, UBND xã còn chủ động ban hành văn bản đề nghị các trường học trên địa bàn xã không yêu cầu từng người dân nộp Giấy xác nhận cư trú của học sinh như mọi năm, thay vào đó xã sẽ lập danh sách gửi trực tiếp cho nhà trường. Cách làm này thể hiện rõ tinh thần cải cách, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người dân.
Đối với các thủ tục hành chính về đất đai - lĩnh vực thường gây khó khăn do hồ sơ phức tạp, lãnh đạo xã đã quán triệt rõ phương châm: chỉ tiếp nhận hồ sơ khi đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ có trách nhiệm tư vấn, hỗ trợ người dân rà soát kỹ trước khi nộp. Điều này giúp tránh tình trạng phải trả lại hồ sơ, yêu cầu bổ sung nhiều lần, gây lãng phí thời gian.
Cán bộ năng động ở vùng đất có nhiều cái “nhất”

Quảng Trực là xã biên giới giáp Campuchia với hơn 40 km đường biên, diện tích gần 560 km2 với 12.000 nhân khẩu, đa số là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây từng là An toàn khu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và là một trong những địa phương đặc biệt khó khăn của tỉnh Đắk Nông trước đây.
Từ ngày 1/7/2025, bộ máy chính quyền địa phương hai cấp chính thức đi vào vận hành. Ban lãnh đạo UBND xã xác định rõ tinh thần phục vụ: gần dân, sát dân, làm hết sức để người dân được hưởng dịch vụ hành chính nhanh chóng, thuận tiện nhất. Minh chứng cho tinh thần đó là kết quả hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công. Chỉ sau hơn 2 tuần hoạt động (từ ngày 1 - 17/7), Trung tâm đã tiếp nhận trên 1.000 hồ sơ, trong đó 60% được giải quyết trước hạn, còn lại đúng hạn, không có hồ sơ quá hạn.
Theo Chủ tịch UBND xã Quảng Trực Nguyễn Văn Anh, thành quả này đạt được nhờ tinh thần chủ động, sáng tạo và sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị chuyên môn. Ngay từ khi nắm bắt chủ trương của cấp trên, tập thể lãnh đạo UBND xã quán triệt tinh thần chủ động, sáng tạo, làm được điều gì thuận lợi nhất cho người dân phải ưu tiên làm hết sức. Những thủ tục hành chính đơn giản như đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh nếu trước đây người dân phải chờ đợi thì nay được giải quyết ngay, kèm theo thư chúc mừng - hành động nhỏ nhưng thể hiện sự quan tâm và mang ý nghĩa lớn - không để người dân phải đi lại nhiều lần. "Mỗi thủ tục chỉ mất từ 30 đến 60 phút là hoàn tất chính là mục tiêu cải cách hành chính mà xã kiên trì theo đuổi", ông Nguyễn Văn Anh cho biết.
Trong đợt sắp xếp đơn vị hành chính vừa qua, dù không nằm trong diện sáp nhập với các đơn vị hành chính khác nhưng xã Quảng Trực được bố trí sắp xếp, bổ sung thêm 50 cán bộ từ huyện Tuy Đức cũ, nâng tổng số vị trí việc làm tại xã lên 78 người; góp phần củng cố lực lượng và nâng cao chất lượng hoạt động. Đội ngũ cán bộ công chức từ huyện chuyển về và trước đó làm tại đơn vị đều có trình độ chuyên môn đáp ứng nhu cầu công việc, năng động, dám nghĩ, dám làm. Ban lãnh đạo xã cũng luôn lắng nghe, tiếp thu, có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ phát huy tinh thần năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ.
Trong thời gian tới, UBND xã dự kiến phối hợp với Công an xã triển khai việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến mã định danh cá nhân, căn cước công dân, cư trú... ngay tại Trung tâm phục vụ hành chính công xã, góp phần tinh giản quy trình và tạo thuận lợi tối đa cho người dân./.
Tên tự gọi: Mnông.
Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...
Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.
Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.
Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.
Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.
Ở: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.
Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.
Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.
Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.
Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.
Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.
Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.
Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.
Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.
Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...
Theo cema.gov.vn
