Đắk Nông vài nét tổng quan

Đắk Nông vài nét tổng quan
1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý

Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045' đến 12050' vĩ độ Bắc, 107013' đến 108010' kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Đăk Nông là tỉnh nằm trong khu vực tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia.

Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Đông Nam Bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lắk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 180 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 230 km về phía Đông. Đắk Nông có 130 km đường biên giới với nước bạn Campuchia, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap,..

Địa hình
        
Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là 6.514,38 km2. Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M'Nông, độ cao trung bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà Đùng).

Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như hai mái của một ngôi nhà mà đường nóc là dãy núi Nam Nung, chạy dài từ Đông sang Tây, có độ cao trung bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ Đông sang Tây. Các huyện Đăk Song, Đăk Mil, Cư Jut, Krông Nô thuộc lưu vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện Tuy Đức, Đăk Rlâp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam.

Vì vậy, Đắk Nông có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lư­ợn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ dốc từ 0-30 chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 - 800 m, độ dốc khoảng 5-100. Địa hình chia  cắt mạnh và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk Glong, Đắk R'Lấp.

Khí hậu
      
Đắk Nông là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể.

Nhiệt độ trung bình năm 22-230 C, nhiệt độ cao nhất 350 C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2000-2300 giờ. Tổng tích ôn cao 8.0000 rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.

Lượng mưa trung bình năm 2.513 mm, lượng mưa cao nhất 3.000mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.

Hướng gió thịnh hành mùa mưa là Tây Nam, hướng gió thịnh hành mùa khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 -5,4 m/s , hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội.

Tuy nhiên cũng như các vùng khác của Tây Nguyên, điều bất lợi cơ bản về khí hậu là sự mất cân đối về lượng mưa trong năm và sự biến động lớn về biên độ nhiệt ngày đêm và theo mùa, nên yếu tố quyết định đến sản xuất và sinh hoạt là việc cấp nước, giữ nước và việc bố trí mùa vụ cây trồng.

Thủy văn
     
Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện và phục vụ nhu cầu dân sinh.
   
Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:

Sông Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu với nhau tại thác Buôn Dray. Khi chảy qua địa phận huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện mang lại giá trị kinh tế. Đó là thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap. Các suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H'Linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Klou, Đắk Sor cũng đều là thượng nguồn của sông Sêrêpôk.

Sông Krông Nô bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2.000 m phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắk, chảy qua huyện Krông Nô. Sông Krông Nô có ý nghĩa rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối lớn nhỏ khác suối Đắk Mâm, Đắk Rô, Đắk Rí, Đắk Nang là thượng nguồn của sông Krông Nô.

Hệ thống sông suối thượng nguồn sông Đồng Nai. Sông Đồng Nai dòng chảy chính không chảy qua địa phận Đắk Nông nhưng có nhiều sông suối thượng nguồn. Đáng kể nhất là: Suối Đắk Rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, Đắk Nông với chiều dài 90 km. Suối Đắk Nông có lưu lượng trung bình 12,44m3/s. Môduyn dòng chảy trung bình 47,9 m3/skm2.Suối Đắk Bukso là ranh giới giữa huyện Đắk Song và Đắk R'Lấp. Suối ĐắkR'Lấp có diện tích lưu vực 55,2 km2, là hệ thống suối đầu nguồn của thủy điện Thác Mơ. Suối Đắk R'Tih chảy về sông Đồng Nai, đầu nguồn của thủy điện Đắk R'tih và thủy điện Trị An.

Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, đập lớn vừa có tác dụng giữ nước cho sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR'tih, Đồng Nai 3, 4...

Chế độ lũ: Chịu sự chi phối mạnh của sông Krông Nô. Tại Đức Xuyên lũ lớn thường xảy ra vào tháng 9, 10. Hàng năm dòng sông này thường gây ngập lũ ở một số vùng thuộc các xã phía nam huyện Krông Nô. Lũ trên sông Sêrêpôk là tổ hợp lũ của 2 sông Krông Nô và Krông Na, lũ xuất hiện vào tháng 9 và 10.

Đất đai

Đắk Nông có tổng diện tích đất tự nhiên là 650.927 ha.

Về thổ nhưỡng: Đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% diện tích và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đăk Mil, Đăk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối.

Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đắk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền đất xám, đất đỏ bazan. Đồng thời rất thích hợp cho phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất Gley và đất phù sa ven sông, suối.
     
2. Dân cư
      
Tính đến năm 2016, dân số toàn tỉnh là 636.000 người. Dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức.

Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm hơn 40 dân tộc cùng sinh sống. Cơ cấu dân tộc đa dạng chủ yếu là dân tộc Kinh,  M'Nông, Tày, Thái, E Đê, Nùng. Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,5%; M'Nông chiếm 9,7%, các dân tộc khác chiếm tỷ lệ nhỏ.

Đắk Nông là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú. Gồm có Công giáo, Phật giáo, Tin lành.

Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đăk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả,... phong phú và đặc sắc.

3. Lịch sử hình thành và phát triển

Đắk Nông là vùng đất cổ, nằm trên cao nguyên M’Nông, phía Tây Nam vùng Tây nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn, có độ cao trung bình từ 600 - 700m, có nơi lên đến 1.970m so với mực n­ước biển. Là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa như M’Nông, Mạ, Ê đê …, theo chế độ cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải dài trên một địa bàn rộng lớn.

Do vị trí địa lý, vùng đất Đăk Nông nói riêng, vùng đất Tây Nguyên nói chung, nằm ở ngã ba của các quốc gia Đông Dương, luôn chịu sự tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài với các tộc người bản địa hoặc giữa các thế lực xâm lược với nhau. Vì vậy, vùng đất này luôn chịu sự xáo trộn về ranh giới địa lý hành chính.

Từ năm 1893, triều đình nhà Nguyễn buộc phải chấp nhận để Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung phần, Đăk Nông trở thành vùng đất thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp.

Không chịu khuất phục dưới ách thống trị của thực dân, các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riêng đã vùng lên, chống thực dân xâm lược mà điển hình là các cuộc khởi nghĩa của N'Trang Gưh (1845-1914, tù trưởng buôn Cuah Kplang), từ năm 1887 đến năm 1914, ông từng lãnh đạo nghĩa quân bao vây tiêu diệt đồn Buôn Tur, buôn Riăng, buôn Dur, buôn Tinh, đồn Phơty…; cuộc khởi nghĩa của N'Trang Lơng (1870 - 1935, là người dân tộc M'Nông), Ông đã đứng lên lãnh đạo các dân tộc M' Nông, Stiêng, Mạ… vũ trang chống Pháp từ cuối năm 1911, cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp vùng cao nguyên M'Nông và được nhiều tù trưởng tài giỏi khác như R'Dinh, R'Ong (tù trưởng của các buôn Bu Jeng Chet, Bu Mera, Bu Nơr, Bu Nốp... thuộc tổng DakRtik, nay là tỉnh Đắk Nông) tham gia. Giữa tháng 5 năm 1935, quân Pháp tập trung tiến công đại bản doanh của nghĩa quân. Tù trưởng N'Trang Lơng bị trọng thương và tử thương đêm 23 tháng 5 năm 1935.

Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định khu vực Tây Nguyên, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập hệ thống chính quyền tay sai thực dân trên địa bàn Đăk Nông để kiểm soát dân chúng, tập trung ở Đăk Mil, Đăk Song. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, chúng còn cho xây dựng Ngục Đăk Mil (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đắk Nông), nhằm đày ải và tra tấn các chiến sĩ cách mạng của ta. Ngục Đăk Mil trở thành một cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục dũng cảm của những người Cộng sản yêu nước.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Đắk Nông là vùng địch tạm chiếm đóng. Đồng bào dân tộc M'Nông, Mạ… với truyền thống kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại xâm đã được sớm giác ngộ và đi theo cách mạng. Năm 1950, tỉnh Đắk Lắk cử Đội công tác 124 về tiến hành xây dựng cơ sở ở xung quanh núi Nâm Nung.

Những năm 1954 - 1959, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều thanh niên M'Nông, Mạ… đã giác ngộ cách mạng, thoát ly và được đưa vào vùng hậu cứ đào tạo để sau này phục vụ địa phương. Ban Cán sự Đảng kết hợp với đội công tác tuyên truyền, vận động thành lập được trung đội du kích người dân tộc M'Nông để chiến đấu chống Pháp. Đây là những lực lượng tiền thân của lực lượng quân sự tỉnh sau này.

Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn cứ của lực lượng cách mạng. Tại căn cứ này, chính quyền cách mạng đã xây dựng được 3 trung đội du kích, gồm 150 thanh niên M'Nông, đã huy động được hàng chục ngàn ngày công phục vụ chiến đấu, vận động nhân dân đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, hàng trăm tấn thực phẩm cho cách mạng và xây dựng hàng ngàn hầm chông, cạm bẫy, rào hàng chục cây số để chiến đấu bảo vệ hậu cứ, bảo vệ an toàn cơ quan lãnh đạo tỉnh, huyện và các trạm hành lang.

Tháng 1.1959, chính quyền Sài Gòn cắt một phần phía Tây của tỉnh Đắk Lắk, một phần quận Kiến Hòa của Thủ Dầu Một để thành lập tỉnh Quảng Đức. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay, được chia làm 3 quận: Quận Đức Lập, quận Kiến Đức, quận Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên. Để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh, tháng 12 năm 1960, Trung ương đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia địa giới của địch (lấy mật danh là B4), thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V trực tiếp chỉ đạo; giữa năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo.

Đầu năm 1962, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của Cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức, chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 5/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được thành lập lại, Chính quyền Cách mạng đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành ổn định tổ chức, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế-xã hội. Tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk.

Từ ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông được tái lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk.
Theo daknong.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Phân luồng giao thông do sạt lở trên đèo Dran

Phân luồng giao thông do sạt lở trên đèo Dran

Chiều 30/10, Sở Xây dựng Lâm Đồng đã có thông báo phân luồng, tổ chức giao thông trên Quốc lộ 20 trong thời gian sửa chữa chữa, khắc phục sự cố sạt lở trên đèo Dran, thuộc địa phận phường Xuân Trường - Đà Lạt.

Cử tri mong muốn có phương án lâu dài giảm thiểu thiệt hại do sạt lở đất

Cử tri mong muốn có phương án lâu dài giảm thiểu thiệt hại do sạt lở đất

Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, chiều 30/10, Quốc hội thảo luận tại hội trường về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021 - 2025: phát triển kinh tế - xã hội; cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030. Các nội dung này đều được truyền hình, phát thanh trực tiếp và nhiều cử tri tại tỉnh Lào Cai đặc biệt quan tâm theo dõi.

Mưa lớn, nhiều trường học ở Lâm Đồng cho học sinh nghỉ học

Mưa lớn, nhiều trường học ở Lâm Đồng cho học sinh nghỉ học

Cơn mưa lớn từ tối 29/10 kéo dài đến sáng 30/10 đã khiến nước nhiều tuyến đường giao thông ở các địa phương ven biển tỉnh Lâm Đồng bị ngập, có nơi ngập nặng, nhất là các nơi đang chịu ảnh hưởng của mưa lũ. Nước tại nhiều sông, suối tiếp tục dâng cao, các vùng trũng, xung yếu vẫn đang bị chia cắt, ngập lụt. Tình hình mưa lũ vẫn còn diễn biến phức tạp. Để đảm bảo an toàn cho giáo viên và học sinh, nhiều trường học đã chủ động cho học sinh nghỉ học.

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài cuối: 'Học dân' để xác định đường lối, chính sách phù hợp

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài cuối: 'Học dân' để xác định đường lối, chính sách phù hợp

Trong tiến trình đổi mới phương thức lãnh đạo, một cụm từ giản dị mà hàm chứa sức nặng tư tưởng đã xuất hiện trang trọng trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ I (nhiệm kỳ 2025 - 2030) đó là “học dân”. Từ hai chữ ấy, một cánh cửa mới mở ra trong lý luận của Đảng và tư duy lãnh đạo hiện đại.

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài 3: Kiến tạo chính quyền phục vụ và phát huy nội lực

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài 3: Kiến tạo chính quyền phục vụ và phát huy nội lực

Trong hành trình đổi mới phương thức lãnh đạo, khi Đảng chuyển từ “lãnh đạo, chỉ đạo” sang “đồng hành”, từ “quản lý” sang “phục vụ”, mô hình chính quyền ở Phường 1 Bảo Lộc và xã biên giới Quảng Trực (Lâm Đồng) đang khẳng định một hướng đi mới. Đó là xây dựng hệ thống vận hành minh bạch, dữ liệu hóa và gắn chặt với lòng dân.

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài 2: Người giữ 'tần số' niềm tin giữa đại ngàn Ea K’Tur

Đảng kiến tạo - Dân đồng hành - Bài 2: Người giữ 'tần số' niềm tin giữa đại ngàn Ea K’Tur

Với 64 năm tuổi đời, 31 năm học và làm theo Đảng, bà H’Bliăk Niê (tên buôn làng thường gọi là Ami Bơng) vẫn bền bỉ giữ nguồn năng lượng, niềm tin vào Đảng. Mỗi ngày, nguồn năng lượng ấy càng được nhân lên và truyền đi "tín hiệu" bền bỉ của niềm tin, lan tỏa trong cộng đồng các dân tộc anh em. Bà là một trong số ít những già làng được đồng bào suy tôn.

Tìm kiếm nạn nhân bị nước cuốn mất tích khi đánh bắt cá trên sông Pô Kô

Tìm kiếm nạn nhân bị nước cuốn mất tích khi đánh bắt cá trên sông Pô Kô

Ngày 29/10, Phó Chủ tịch UBND xã Đăk Pék Đỗ Đăng Dự thông tin, lực lượng chức năng của xã đang nỗ lực tìm kiếm người đàn ông bị nước cuốn trôi, mất tích khi đang đánh bắt cá tại khu vực sông Pô Kô, đoạn đi qua thôn 14A, xã Đăk Pék. Nạn nhân là ông A Na (sinh năm 1977, không rõ hộ khẩu thường trú).

Nỗ lực hỗ trợ đồng bào bị ảnh hưởng lũ quét, sạt lở núi tại Đà Nẵng

Nỗ lực hỗ trợ đồng bào bị ảnh hưởng lũ quét, sạt lở núi tại Đà Nẵng

Mưa lớn trong nhiều ngày qua, nhất là từ đêm 28/10 đến ngày 29/10, khiến vùng núi cao của các xã Trà My, Trà Tân, Trà Giáp, thành phố Đà Nẵng bị sạt lở nhiều nơi. Hàng loạt tuyến giao thông vừa mới khôi phục, tạm thông tuyến đã tiếp tục bị sạt lở nặng, tái diễn tình trạng ách tắc. Lũ quét và sạt lở núi khiến nhiều người bị thương.

Quảng Ngãi gồng mình ứng phó với ngập úng, lở núi

Quảng Ngãi gồng mình ứng phó với ngập úng, lở núi

Sau 4 ngày mưa lớn kéo dài vùng núi của tỉnh Quảng Ngãi đã “no nước” gây sạt lở hàng trăm vị trí; những dòng nước lũ “đỏ ngầu” “cuồn cuộn” đang tiếp tục đổ về xuôi khiến nhiều khu vực khu dân cư vùng hạ lưu các sông bị ngập sâu, chia cắt.

Một người dân Quảng Ngãi mất tích do mưa lũ

Một người dân Quảng Ngãi mất tích do mưa lũ

Sáng 29/10, ông Đinh Xuân Hòa, Chủ tịch UBND xã Ngọc Linh, tỉnh Quảng Ngãi cho biết, trên địa bàn xã có 1 trường hợp là anh A Pôr (sinh năm 1994, trú thôn Làng Đung) không may bị nước lũ cuốn trôi. Lực lượng chức năng của xã đang nỗ lực tìm kiếm nạn nhân mất tích.

Khẩn trương khắc phục sạt lở tuyến Tỉnh lộ 9 lên các xã miền núi Khánh Hòa

Khẩn trương khắc phục sạt lở tuyến Tỉnh lộ 9 lên các xã miền núi Khánh Hòa

Chiều 28/10, ông Nguyễn Văn Vinh - Phó Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Khánh Hòa cho biết, khoảng 14 giờ cùng ngày, 4 vị trí từ Km23 - Km26, thuộc Tỉnh lộ 9 đi qua các xã khu vực miền núi của tỉnh đã xảy ra sạt lở khiến một lượng đất, đá chắn ngang đường làm các phương tiện không thể lưu thông qua khu vực này.

Điện Biên đề nghị bố trí thêm vốn nâng cấp tuyến đường kết nối vùng tái định cư

Điện Biên đề nghị bố trí thêm vốn nâng cấp tuyến đường kết nối vùng tái định cư

Sáng 28/10, Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Môi trường do Thứ trưởng Võ Văn Hưng làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với UBND tỉnh Điện Biên về kết quả thực hiện bố trí dân cư vùng thiên tai cấp bách; điều chỉnh Đề án ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội vùng tái định cư thủy điện Sơn La (Đề án 666) và kết quả thực hiện 2 Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

Bộ đội Biên phòng giúp đỡ người dân di chuyển khỏi vùng nguy hiểm do mưa lũ

Bộ đội Biên phòng giúp đỡ người dân di chuyển khỏi vùng nguy hiểm do mưa lũ

Theo Đồn Biên phòng cửa khẩu A Đớt, Ban Chỉ huy Biên phòng TP Huế, trước tình hình mưa lũ nghiêm trọng ngày 28/10/2025, đơn vị đã cử 3 tổ với 9 đồng chí phối hợp với chính quyền địa phương cùng các lực lượng trên địa bàn triển khai khắc phục thông tuyến đường từ Lâm Đớt vào xã A Roàng (cũ) đang bị chia cắt.

Tây Ninh: Hỗ trợ tối đa 15 tháng lương cho người làm việc tại các Hội khi nghỉ việc

Tây Ninh: Hỗ trợ tối đa 15 tháng lương cho người làm việc tại các Hội khi nghỉ việc

Tại Kỳ họp thứ 4 (kỳ họp chuyên đề) diễn ra ngày 28/10, HĐND tỉnh Tây Ninh đã thông qua Nghị quyết Quy định chính sách, chế độ trợ cấp một lần đối với người làm việc ngoài chỉ tiêu biên chế tại các Hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp tỉnh, cấp huyện trước thời điểm ngày 1/7/2025 chịu sự tác động do thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính các cấp theo Kết luận số 183-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên địa bàn tỉnh.