Trường Sơn là một xã miền núi đặc biệt khó khăn của tỉnh Quảng Bình, với 19 thôn, bản, trong đó đồng bào Bru - Vân Kiều chiếm hơn 62% dân số. Cuộc sống của người dân nơi đây còn nhiều thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo cao, phần lớn bà con sinh sống bằng nghề làm nương rẫy, trồng trọt, chăn nuôi và khai thác lâm sản phụ. Trình độ dân trí còn hạn chế nên đồng bào nơi đây, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS), vẫn đang phải đối mặt với nhiều hủ tục lạc hậu như: Tục nối dây, tảo hôn, hôn nhân cận huyết và sự bất bình đẳng giới vẫn hiện hữu trong đời sống hằng ngày. Đây là những lực cản trong hành trình phát triển và vươn lên của người dân.


Chính vì vậy, xã Trường Sơn được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam chọn làm điểm đầu tiên trong cả nước triển khai dự án 8 về xây dựng và vận hành “Tổ truyền thông cộng đồng”, bắt đầu hành trình nâng bước phụ nữ dân tộc thiểu số vượt qua định kiến, nâng cao nhận thức và phát huy vai trò chủ thể trong phát triển cộng đồng.
"Tôi nhớ lần đầu truyền thông ở những bản chưa có điện lưới quốc gia, bà con không hiểu tiếng Kinh, không ai lên tiếng phản hồi lại... Nhưng đến khi tôi cố gắng dùng tiếng Vân Kiều, không khí thay đổi hẳn. Các chị em bắt đầu chia sẻ thẳng thắn ý kiến, chủ động nêu nhu cầu, thậm chí còn hỏi khi nào chương trình sẽ quay lại bản. Từ chỗ rụt rè, ngại ngần, họ đã mở lòng, mong được tiếp cận thêm những kiến thức, sự hỗ trợ từ dự án 8”, chị Nguyễn Thị Mỹ Duyên, Chủ tịch Hội LHPN xã Trường Sơn chia sẻ.
Hiện tại trên địa bàn xã có 15 Tổ truyền thông cộng đồng (TTCĐ) được thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, Hội đã xây dựng kế hoạch truyền thông mẫu và hướng dẫn hoạt động truyền thông tại cộng đồng với 15 tổ TTCĐ đã thành lập và cả những đơn vị bản chưa có kinh phí để thành lập để đảm bảo thôn, bản nào cùng kịp thời được tiếp nhận và hưởng thủ các nội dung của dự án.
Dù thời gian triển khai chưa dài, nhưng hiệu quả bước đầu đã hiện rõ. Ở nhiều bản người Bru - Vân Kiều, người dân bắt đầu thay đổi từ nhận thức đến hành động. Nội dung các buổi truyền thông ngày càng phong phú, gần gũi như: Bình đẳng giới, vai trò giới trong công việc gia đình, chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết, kỹ năng chăm sóc và bảo vệ trẻ em, phòng chống bạo lực gia đình, bảo vệ môi trường...

Chị Hồ Thị Thư (53 tuổi, dân tộc Bru - Vân Kiều, bản Đá Chát, xã Trường Sơn) chia sẻ: “Khi tham gia vào ‘Tổ truyền thông cộng đồng’ bản Đá Chát, tôi đã hiểu ra nhiều thứ, thay đổi suy nghĩ. Ví dụ trong công việc nhà, hai vợ chồng cùng nhau chia sẻ, con cái được bảo đảm học hành đầy đủ. Tôi tuyên truyền những điều này tới bà con trong bản thông qua hệ thống loa và qua những buổi nói chuyện với bà con. Với sự kiện ‘Xanh màu khát vọng’ được tổ chức tại địa phương, tôi và các chị em rất vui khi được tham gia và đây cũng là một cách đổi mới khi tổ chức các hoạt động tuyên truyền.”
Không ít chị em phụ nữ cũng hào hứng kể lại sự thay đổi tích cực trong gia đình mình sau các buổi truyền thông. “Chồng tôi trước kia chẳng bao giờ đụng tay việc nhà. Giờ thì khi tôi nấu ăn, anh rửa bát; tôi quét nhà, anh dọn vườn. Anh bảo nghe mấy buổi tuyên truyền thấy cũng hay, cũng đúng. Tôi vui lắm, mong tổ TTCĐ sẽ có thêm nhiều nội dung hay hơn nữa để bà con học hỏi, thay đổi”.

Không chỉ dừng lại ở việc truyền thông về giới, các tổ TTCĐ còn hướng tới việc trang bị kỹ năng phòng chống thiên tai, một trong những vấn đề sống còn với địa bàn thường xuyên hứng chịu bão lũ như Trường Sơn. Chị Mỹ Duyên cho biết: “Bà con nơi đây đã ‘sống chung với lũ’ qua nhiều thế hệ, nhưng hầu hết kỹ năng phòng chống thiên tai vẫn chỉ dựa vào kinh nghiệm truyền đời, ít tiếp cận với công nghệ, nguồn thông tin chính thống. Vì vậy, các buổi truyền thông sẽ lồng ghép kiến thức về phòng chống thiên tai, thời tiết cực đoan; kỹ năng ứng phó tình huống, tạo điều kiện để bà con được trải nghiệm, thực hành để ghi nhớ và chủ động hơn trước thiên tai”.
Theo Hội LHPN tỉnh Quảng Bình, giai đoạn I, Hội đã thành lập được 71/61 Tổ TTCĐ. Ngay sau khi thành lập các Tổ TTCĐ, Hội Phụ nữ tỉnh đã tổ chức 9 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho các thành viên trong Tổ; 6 cuộc truyền thông cho người dân tại các thôn, bản thuộc địa bàn dự án. Cùng với đó, Hội đã rà soát các mô hình sinh kế, tổ hợp tác, hợp tác xã do phụ nữ làm chủ, đồng làm chủ để tập trung nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số theo 6 nội dung hướng dẫn.

Năm 2023, Hội Phụ nữ tỉnh Quảng Bình đã tổ chức 2 lớp tập huấn sử dụng Sổ tay hướng dẫn “Hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số” cho 53 người là cán bộ Hội các cấp. Cùng với đó tổ chức 4 lớp tập huấn hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ cho 102 thành viên các tổ nhóm sinh kế, tổ hợp tác, hợp tác xã có phụ nữ làm chủ hoặc đồng làm chủ thuộc Hội LHPN các huyện: Lệ Thủy, Quảng Ninh, và Minh Hóa với tổ hợp tác mây tre đan Trọng Hoá, hợp tác xã nuôi ong lấy mật đại ngàn Trường Sơn, hợp tác xã nông nghiệp Trường Sơn, tổ du lịch văn hóa cộng đồng xã Kim Thủy…
Xã Ea Sô (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk) là địa bàn đặc biệt khó khăn với hơn 60% dân số là đồng bào DTTS, chủ yếu là người Ê Đê. Tại đây, bất bình đẳng giới vẫn là một rào cản lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em DTTS còn gặp nhiều hạn chế về quyền tiếp cận thông tin, dịch vụ, cơ hội phát triển. Nơi đây vẫn tồn tại những vụ việc xâm hại, bạo lực gia đình; những hủ tục như nối dây, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, sinh nhiều con… cùng định kiến về vai trò giới vốn đã ăn sâu trong đời sống cộng đồng.
Trong bối cảnh đó, với sự hỗ trợ của tỉnh và huyện, Hội LHPN xã Ea Sô đã triển khai hiệu quả mô hình “Tổ truyền thông cộng đồng” tại hai buôn điểm Ea Púk và Cư Ana Săn. Từ 2 mô hình thí điểm, mô hình nhanh chóng lan rộng, đến nay đã phát triển thành 7 tổ tại các thôn, buôn đặc biệt khó khăn, trở thành “cánh tay đắc lực” của Hội trong công tác truyền thông, thay đổi nhận thức, bảo vệ phụ nữ và trẻ em.

Chị Võ Thị Mộng Khương, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Ea Sô, thành viên tổ truyền thông cộng đồng buôn Cư Ana Săn (xã Ba Sô, huyện Ea Kar) chia sẻ: “Ngay sau khi thành lập mô hình, Hội đã phối hợp tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho 100% thành viên. Trên cơ sở đó, các tổ đã chủ động khảo sát thực trạng, xây dựng nội dung và hình thức truyền thông phù hợp, từ họp dân, phát thanh nội bộ, đến tư vấn trực tiếp tại hộ gia đình để giải quyết, hạn chế những vấn đề liên quan đến phụ nữ, trẻ em như: Bất bình đẳng giới trong việc ra quyết định những vấn đề chung của gia đình, thực trạng kém vệ sinh trong lối sống, sinh hoạt, tình trạng tảo hôn, phong tục nối dây lạc hậu của người DTTS.
Hàng năm, các tổ đã tổ chức hơn 28 buổi tuyên truyền trực tiếp, phát 2.000 tờ rơi tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, chăm sóc sức khỏe sinh sản, pháp luật về hôn nhân, gia đình. Đặc biệt, tổ chức 3 đợt trên loa kéo để thông tin đến hội viên, phụ nữ và nhân dân về kiến thức Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân gia đình, phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống… phù hợp với nhu cầu của từng thôn, buôn. Việc lồng ghép tuyên truyền trong các cuộc họp thôn, buôn đã biến truyền thông trở thành một phần quen thuộc trong đời sống cộng đồng”.


Với lợi thế 'người thật, việc thật', các thành viên tổ truyền thông vốn là cán bộ Hội, già làng, giáo viên, y tế thôn bản, phụ nữ tiêu biểu đã trực tiếp đến từng hộ dân, nói chuyện bằng chính tiếng dân tộc, chia sẻ gần gũi, chân thành. Không chỉ tuyên truyền kiến thức, họ còn lắng nghe, tư vấn, hòa giải mâu thuẫn gia đình, và kết nối các trường hợp đặc biệt về chính quyền địa phương để kịp thời hỗ trợ.
Những thay đổi đã dần hiện hữu, tỷ lệ người dân tham gia các hoạt động truyền thông đạt trên 60% hộ dân, trong đó đồng bào DTTS chiếm tỷ lệ lớn. Hơn 20 trường hợp liên quan đến tảo hôn, tục nối dây, bạo lực gia đình… đã được can thiệp hiệu quả. Đáng chú ý, nhiều người chồng tại các buôn đã đồng thuận chia sẻ việc nhà, ủng hộ vợ tham gia Hội, sinh hoạt văn hóa, thể thao. Các nội dung về “3 sạch”, chăm sóc trẻ em, sử dụng thực phẩm an toàn… cũng ghi nhận hiệu quả rõ rệt: 75% người dân rửa tay bằng xà phòng, 70% hộ có công trình vệ sinh, 95% trẻ em được tiêm chủng đầy đủ, người dân biết cách đọc hạn sử dụng, xử lý rác thải đúng quy định.
Không chỉ dừng lại ở truyền thông, các tổ TTCĐ còn là cầu nối quan trọng giữa người dân và chính quyền. Nhờ đề xuất từ tổ, 9 hộ khó khăn đã được hỗ trợ tổng cộng 90 triệu đồng để phát triển mô hình “Nuôi bò thoát nghèo”; nhiều phụ nữ được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế, bảo vệ môi trường sống…
“Tổ TTCĐ đang làm tốt vai trò đồng hành, lắng nghe và truyền tải thông tin một cách gần gũi, hiệu quả. Không chỉ phát tờ rơi, tổ còn chủ động hòa giải mâu thuẫn, hỗ trợ mô hình sinh kế; đồng thời giúp người dân nhận diện thông tin chính thống, tránh rơi vào các bẫy lừa đảo trên mạng, điều rất cần thiết trong thời đại số, nhất là tại vùng sâu, vùng xa như Ea Sô”, chị Võ Thị Mộng Khương cho biết.
Tuy nhiên, hành trình ấy không hề dễ dàng. Các thành viên tổ thường phải vượt đường xa, đèo dốc trơn trượt, đi bộ hàng cây số đến các buôn làng; lại phải đối mặt với rào cản ngôn ngữ, tập tục, sự e dè, tự ti của phụ nữ. Nhiều người dân vẫn chưa nhận thức rõ quyền của mình, nên việc thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” ban đầu gặp nhiều gian nan. Nhưng chính từ trong gian khó, “Tổ truyền thông cộng đồng” đã chứng minh được giá trị bằng sự bền bỉ, thấu hiểu và tiếng nói từ chính người trong cộng đồng.
Đến nay, toàn tỉnh Đắk Lắk đã thành lập 297 tổ truyền thông cộng đồng, vượt kế hoạch đề ra. Đây được xem là mô hình hiệu quả bền vững nhất trong việc thay đổi hành vi, nâng cao vị thế phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số. Không chỉ mang kiến thức đến từng mái nhà, từng hộ dân, họ còn truyền cảm hứng, gieo niềm tin và khơi dậy sự chủ động trong mỗi người dân để cùng nhau thay đổi cuộc sống.
Trong những năm triển khai Dự án 8, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh Thanh Hóa đã gặp không ít khó khăn, thách thức. Trở ngại lớn nhất là điều kiện địa lý và hạ tầng giao thông còn nhiều cách trở. Nhiều xã, thôn bản muốn tiếp cận phải đi bộ hàng chục cây số qua những cung đường đèo dốc, trơn trượt; mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng lại nứt nẻ, khô hạn. Những chuyến đi “bám bản, bám dân” vì thế không hề dễ dàng, nhất là với các cán bộ Hội.

Cùng với đó là những rào cản vô hình nhưng dai dẳng như: Tư tưởng bảo thủ, tập tục lạc hậu, thói quen sinh hoạt đã ăn sâu trong nếp nghĩ của người dân. Một bộ phận phụ nữ vẫn còn tâm lý tự ti, ngại tham gia hoạt động cộng đồng, chưa thực sự nhận thức đầy đủ về quyền lợi và vai trò của bản thân. Việc thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” vì vậy trở thành hành trình đầy gian nan. Đặc biệt, với sự đa dạng ngôn ngữ và văn hóa tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác truyền thông, tập huấn càng đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và sát với thực tiễn. Nếu làm không khéo, rất dễ rơi vào hình thức, xa rời người dân.
Từ thực tiễn đó, mô hình “Tổ truyền thông cộng đồng” đã ra đời và nhanh chóng phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác truyền thông, thay đổi nhận thức tại cơ sở. Các tổ được thành lập với sự tham gia của những người am hiểu địa phương như: cán bộ Hội, người có uy tín (già làng, trưởng bản, thầy mo, giáo viên, nhân viên y tế thôn bản), phụ nữ tiêu biểu… Họ trực tiếp đến từng thôn bản, hộ gia đình để trò chuyện, vận động bằng chính tiếng nói của đồng bào, bằng những câu chuyện đời thường gần gũi, dễ hiểu về bình đẳng giới, phòng chống tảo hôn, xóa bỏ hủ tục, bảo vệ trẻ em… Không chỉ truyền tải thông tin, họ còn là cầu nối đưa tâm tư, nguyện vọng của người dân đến các cấp chính quyền.
Tính đến nay, toàn tỉnh Thanh Hóa đã thành lập được 297 Tổ truyền thông cộng đồng, vượt kế hoạch đề ra. Đặc biệt, các tổ đều duy trì hoạt động đều đặn, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Đây được đánh giá là mô hình hiệu quả, bền vững, bởi truyền thông được thực hiện từ chính người trong cộng đồng, bằng tiếng nói của cộng đồng nên dễ tiếp cận, dễ thuyết phục và từng bước thay đổi hành vi. Không chỉ mang lại tri thức, họ còn truyền đi niềm tin, khơi dậy ý chí vươn lên và sự chủ động nơi người phụ nữ trong hành trình bảo vệ và phát triển bản thân.

Bà Bùi Thị Mai Hoan, Phó Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Thanh Hoá nhớ lại những câu chuyện trong những năm thực hiện dự án 8: “Lần đến xã Mường Lý, huyện Mường Lát. Trời mưa lớn, đường lở đá, chúng tôi phải đi bộ hàng cây số mới vào tới điểm bản. Thế nhưng chị em phụ nữ đã có mặt từ rất sớm, ngồi chờ dưới mái nhà tạm để tham gia buổi truyền thông về bình đẳng giới.
Hôm đó, có một chị tên là Giàng Thị Chá, sau khi nghe xong đã rơm rớm nước mắt nói với chúng tôi: ‘Em không nghĩ phụ nữ như em lại có thể làm chủ một mô hình, lại được lên tiếng, được học hỏi nhiều đến thế. Từ nay, em sẽ thay đổi để cuộc sống của em và của những người phụ nữ trong bản ngày càng tốt đẹp hơn’. Sau này, chị Chá đã trở thành một trong những người tiên phong đứng ra thành lập Tổ truyền thông cộng đồng của bản. Những lời nói mộc mạc như vậy, giữa núi rừng mịt mù, trong những hoàn cảnh rất thiếu thốn, lại khiến chúng tôi cảm thấy ấm lòng và có thêm niềm tin rất lớn. Đó là lý do dù khó khăn, chúng tôi vẫn kiên trì bám bản, bám dân, vì chúng tôi hiểu rằng, mỗi sự thay đổi dù nhỏ, cũng có thể làm nên một bước ngoặt trong cuộc đời người phụ nữ nơi đây.”

Tại xã Thanh Sơn, huyện Như Xuân (tỉnh Thanh Hoá), một điểm sáng của dự án 8, mô hình Tổ TTCĐ cũng đang phát huy hiệu quả rõ nét. Chị Ngân Thị Nhất, Chủ tịch Hội LHPN xã cho biết: “Tổ truyền thông của xã có 10 thành viên, là những người có uy tín trong cộng đồng như bí thư, trưởng thôn, cán bộ Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Cựu chiến binh, nông dân, tổ hòa giải... Họ cùng phối hợp tuyên truyền pháp luật, chính sách về đất đai, quyền lợi của người dân, giáo dục thanh thiếu niên, trẻ em gái về phòng chống mua bán người. Đồng thời, tuyên truyền vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, thực hiện hiệu quả các phong trào như ‘5 không, 3 sạch’, ‘nông thôn mới’, phòng chống suy dinh dưỡng, không để trẻ em bỏ học...”
Không chỉ có phụ nữ, nhiều nam giới cũng tích cực tham gia mô hình. Anh Lang Ngọc Quang (49 tuổi, dân tộc Thái, thôn Kẻ Mạnh 1, xã Thanh Sơn, huyện Như Xuân) chia sẻ: “Tôi được tham gia các buổi tập huấn và truyền đạt lại kiến thức cho bà con trong thôn. Nhờ đó, mọi người hiểu hơn về những vấn đề hệ trọng như bạo lực gia đình, tảo hôn, các hủ tục lạc hậu… Nhiều hộ đã cam kết từ bỏ tệ nạn, hướng tới xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc hơn. Tôi thấy nhiều điều thiết thực được thực hiện và bước đầu có những kết quả tích cực tại địa phương.”
Cùng chung suy nghĩ, anh Lang Thanh Tuyến (50 tuổi, thôn Quăn 1, xã Thanh Sơn, huyện Như Xuân) kể lại: “Có những lần tôi được người dân gọi đến tận nhà để can thiệp, hòa giải các vụ mâu thuẫn vợ chồng. Nhờ kiến thức được học, tôi có thể phân tích cặn kẽ, giúp họ hiểu ra vấn đề, rồi dần hòa thuận, cùng nhau chăm lo cuộc sống. Những thay đổi đó tuy nhỏ nhưng rất đáng quý.”

Sau 4 năm thực hiện dự án 8, thông qua các mô hình, hoạt động như: Tổ TTCĐ, câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”, “địa chỉ tin cậy”... các cấp Hội LHPN tỉnh Hà Giang đã thu hút được đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia; tạo được sự quan tâm của cộng đồng, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành động về bình đẳng giới, từng bước xóa bỏ định kiến giới, góp phần xây dựng môi trường sống an toàn cho phụ nữ và trẻ em trên địa bàn tỉnh.
Hội LHPN tỉnh Hà Giang xác định đối thoại chính sách là chìa khóa để đảm bảo tiếng nói, vai trò và sự tham gia thực chất của phụ nữ vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua đó, Hội thúc đẩy thay đổi nếp nghĩ, cách làm, loại bỏ khuôn mẫu giới và các tập tục văn hóa có hại, tạo điều kiện để phụ nữ, trẻ em được sống và phát triển trong môi trường công bằng, tiến bộ. Các cấp Hội đã tổ chức 56 lớp tập huấn hướng dẫn thành lập, vận hành tổ truyền thông cộng đồng, 46 lớp tập huấn kiến thức, kỹ năng tuyên truyền.
Từ các lớp tập huấn đến các buổi truyền thông trực tiếp, phát thanh, mạng xã hội, Fanpage… các cấp Hội đã không ngừng đổi mới, đa dạng hóa cách làm. Các hội thi, liên hoan tìm kiếm mô hình sáng tạo, giải pháp hiệu quả trong xóa bỏ định kiến giới, bạo lực gia đình, mua bán phụ nữ và trẻ em… đã khơi dậy tinh thần chủ động, sáng tạo của từng hội viên, từng cộng đồng DTTS.
Đặc biệt, để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, Hội đã xây dựng và nhân rộng các mô hình thay đổi nếp nghĩ, cách làm. Các cấp Hội đã tập trung hỗ trợ phụ nữ ứng dụng công nghệ 4.0 để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số trong sản xuất và kết nối thị trường cho các sản phẩm nông sản. Hội đã tổ chức được 11 lớp tập huấn về triển khai các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ; hỗ trợ 23 tổ nhóm sinh kế, tổ hợp tác, hợp tác xã do phụ nữ làm chủ, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất…

Tổng kết về dự án 8 giai đoạn 2021 - 2025, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Minh Hương cho biết, trong giai đoạn I, Hội LHPN các tỉnh, thành phố đã duy trì, thành lập được 10.393 Tổ TTCĐ (đạt 115,5%) với sự tham gia của 274.628 thành viên là nam giới, nữ giới những người có uy tín, có năng lực truyền thông trên địa bàn thôn, bản, ấp, buôn... Mô hình là kênh trực tiếp truyền tải hiệu quả những thông tin, kiến thức đến người dân, vừa là kênh nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, phát hiện những vấn đề xã hội cấp thiết đặt ra liên quan đến phụ nữ, trẻ em phản ánh đến cấp Hội và chính quyền địa phương.
Tại cấp Trung ương, Hội đã xây dựng 2 cuốn sổ tay hướng dẫn thành lập và vận hành tổ truyền thông cộng đồng và tổ chức 22 lớp tập huấn hướng dẫn, củng cố năng lực các địa phương thành lập và vận hành mô hình tổ truyền thông cộng đồng và tập huấn hỗ trợ kỹ thuật cho 17 tỉnh được phân bổ nhiều chỉ tiêu và gặp khó khăn trong việc thành lập, duy trì mô hình; xây dựng tài liệu phục vụ triển khai các hoạt động của Tổ truyền thông.
Tại địa phương, Hội LHPN cấp xã trực tiếp tham mưu cho UBND xã thành lập mô hình Tổ TTCĐ, thu hút sự tham gia của những người có uy tín, có năng lực truyền thông trên địa bàn thôn; tổ chức các hoạt động nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động. Ngoài ra cũng tổ chức các cuộc truyền thông nâng cao nhận thức cho người dân tại cộng đồng; đa dạng hóa hình thức hoạt động duy trì, nâng cao chất lượng của mô hình thông qua các hội nghị, hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, các cuộc thi, giao lưu giữa các tổ… Theo đó, 100% các Tổ TTCĐ đã thu hút được sự tham gia của nam giới tiên phong thay đổi tham gia Ban điều hành mô hình và tham gia vào các hoạt động truyền thông tại cộng đồng.
Ở nơi rừng sâu núi thẳm, những người phụ nữ DTTS đang dần trở thành những “người truyền lửa” cho cộng đồng. Mô hình “Tổ truyền thông cộng đồng” không chỉ mang tri thức đến từng mái nhà, mà còn gieo niềm tin, nuôi khát vọng và thúc đẩy sự đổi thay từ chính người trong cuộc. Đó là bước chuyển quan trọng để hành trình phát triển ở vùng cao không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em DTTS.