Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV: Thông qua dự án Luật Lâm nghiệp

Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV: Thông qua dự án Luật Lâm nghiệp
Hội trường họp của Quốc Hội. Ảnh: TTXVN
Hội trường họp của Quốc Hội. Ảnh: TTXVN

Bảo đảm nguồn lực cho quản lý, bảo vệ, phát triển rừng

Với 87,78% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Lâm nghiệp. Luật gồm 12 chương, 108 điều quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; chế biến và thương mại lâm sản.

Về chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp, Luật quy định: Nhà nước có chính sách đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp gắn liền, đồng bộ với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước tổ chức, hỗ trợ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng sản xuất; giống cây trồng lâm nghiệp, phục hồi rừng, trồng rừng mới; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực; thực hiện dịch vụ môi trường rừng; trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn; kết cấu hạ tầng; quản lý rừng bền vững; chế biến và thương mại lâm sản; hợp tác quốc tế về lâm nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; sản xuất lâm nghiệp hữu cơ; bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng. Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; được hợp tác, liên kết bảo vệ, phát triển rừng với chủ rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng; được thực hành văn hoá, tín ngưỡng gắn với rừng theo quy định của Chính phủ.

Giao Chính phủ quy định chi tiết về quản lý, sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng

Trước khi biểu quyết thông qua dự thảo Luật, các đại biểu Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật Lâm nghiệp,.

Đối với phạm vi điều chỉnh của Luật (Điều 1), theo Báo cáo giải trình, có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung cụm từ “trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ và phát triển rừng”, “dịch vụ môi trường rừng" vào phạm vi điều chỉnh của Luật. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng cho biết, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật đã bao hàm các nội dung về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ, phát triển rừng, được thể hiện trong các hoạt động theo chuỗi giá trị lâm nghiệp từ quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng đến chế biến, thương mại lâm sản và dịch vụ môi trường rừng. Theo đó, Luật này quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; chế biến và thương mại lâm sản.

Về dịch vụ môi trường rừng (mục 4 Chương VI), những hoạt động lâm nghiệp được sử dụng ngân sách Nhà nước (Điều 93), Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Điều 95), có ý kiến đề nghị xem xét tính khả thi và sự tương xứng giữa quyền, nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng với bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng; làm rõ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong điều tiết tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, trách nhiệm xử lý trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ không bảo đảm quyền cho bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng; trách nhiệm của bên nhận nhiệm vụ ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Chủ nhiệm Phan Xuân Dũng nêu rõ, việc chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được quy định trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng (2004), Nghị định số 99/2010/NĐ-CP và thực hiện ổn định hơn 7 năm qua ở các địa phương có rừng. Hiện tại, nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng hàng năm là trên 1.200 tỷ đồng, được chi trả cho hơn 500.000 chủ rừng, chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư để quản lý, bảo vệ trên 5,7 triệu ha rừng.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, để bảo đảm hợp lý giữa quyền và nghĩa vụ của các bên, dự thảo Luật đã quy định rõ quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng (Điều 64); quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng (Điều 65); đồng thời quy định những nội dung cơ bản trong quản lý chi trả dịch vụ môi trường rừng như: Loại dịch vụ môi trường rừng (Điều 61), nguyên tắc chi trả (Điều 62), đối tượng, hình thức chi trả và quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng (Điều 63), cơ quan nhận ủy thác để chi trả dịch vụ môi trường rừng (khoản 2 Điều 64) đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng, trong đó có quy định về cơ quan có thẩm quyền quản lý, điều tiết tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng; trách nhiệm của bên nhận nhiệm vụ ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng để phù hợp với từng cấp quản lý.

Xung quanh ý kiến đề nghị cần cân nhắc không nên quy định cụ thể về chi ngân sách Nhà nước đối với hoạt động lâm nghiệp để tránh xung đột với Luật Ngân sách Nhà nước và pháp luật có liên quan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và quy định thể hiện trong dự thảo Luật như sau: Căn cứ vào yêu cầu quản lý, phát triển lâm nghiệp và khả năng của ngân sách Nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định những hoạt động được sử dụng ngân sách Nhà nước. Việc lập, chấp hành, kiểm toán, quyết toán và giám sát ngân sách Nhà nước cho lâm nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước.

Đối với ý kiến đề nghị làm rõ hơn sự cần thiết thành lập Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng; cần quy định rõ Nhà nước có hỗ trợ vốn điều lệ của Quỹ này hay không; rà soát các  quy định cụ thể về nguồn thu, nhiệm vụ chi của Quỹ, Chủ nhiệm Phan Xuân Dũng cho biết, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng là quỹ ngoài ngân sách Nhà nước, được thành lập và thực hiện ổn định hơn 9 năm qua theo Nghị định 05/2008/NĐ-CP của Chính phủ với các hạng mục chi không trùng với nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước đối với cùng một đối tượng. Hiện tại, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng được tổ chức ở 2 cấp: Trung ương và cấp tỉnh. Đến nay, 41 tỉnh đã thành lập Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng với tổ chức ổn định, hoạt động có hiệu quả. Do vậy, dự thảo Luật đã quy định rõ về nguồn tài chính hình thành Quỹ (khoản 4 Điều 95). Riêng nội dung chi của Quỹ được chi theo từng nguồn tài chính hình thành Quỹ nên rất đa dạng, khó quy định chi tiết nên dự thảo Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về cơ chế quản lý sử dụng tài chính của Quỹ và thể hiện như tại khoản 6 Điều 95.
Phan Phương 

Có thể bạn quan tâm

Buông lỏng quản lý, hàng nghìn mét khối đất, cát bị khai thác trái phép

Buông lỏng quản lý, hàng nghìn mét khối đất, cát bị khai thác trái phép

Hàng nghìn mét khối đất, cát dưới chân núi Chư Jôr, địa điểm giáp ranh giữa xã Biển Hồ (thành phố Pleiku) và xã Chư Đang Ya (huyện Chư Păh) tỉnh Gia Lai bị khai thác trái phép nhưng chính quyền địa phương nơi đây xử lý chưa triệt để. Điều này cho thấy những bất cập trong quản lý tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là trong giai đoạn sắp xếp đơn vị hành chính của địa phương này.

Điều chỉnh chính sách hỗ trợ hợp tác xã phù hợp với thực tiễn

Điều chỉnh chính sách hỗ trợ hợp tác xã phù hợp với thực tiễn

Xác định phát triển kinh tế hợp tác xã là một trong những giải pháp căn cơ để tái cơ cấu ngành nông nghiệp một cách toàn diện, từ những mô hình nhỏ lẻ, manh mún, thời gian qua, trên địa bàn ở Phú Thọ đã có bước phát triển rõ rệt, từng bước khẳng định được vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, để khu vực kinh tế tập thể thực sự phát huy vai trò là cầu nối giữa người dân và thị trường, đòi hỏi tỉnh phải tiếp tục đồng bộ các giải pháp về cơ chế, nguồn lực và tổ chức thực hiện.

Chia sẻ kinh nghiệm xây dựng không gian mạng tích cực, văn minh và lành mạnh

Chia sẻ kinh nghiệm xây dựng không gian mạng tích cực, văn minh và lành mạnh

Sáng 17/5, Công an tỉnh Tuyên Quang tổ chức tọa đàm với chủ đề “Tuyên truyền pháp luật đối với các KOLs, quản trị viên trang, kênh, hội, nhóm trên không gian mạng” với sự tham gia của trên 100 người có sức ảnh hưởng trên các nền tảng mạng xã hội (KOLs), quản trị viên trang, kênh, hội, nhóm trên không gian mạng thuộc địa bàn các tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang.

Bắc Kạn khen thưởng nhiều tập thể, cá nhân học tập và làm theo Bác

Bắc Kạn khen thưởng nhiều tập thể, cá nhân học tập và làm theo Bác

Ngày 16/5, Tỉnh ủy Bắc Kạn tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị Khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Dịp này, 36 tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2016- 2025 và năm 2024 được tặng Bằng khen của UBND tỉnh Bắc Kạn.

'Sổ tiết kiệm Búa liềm vàng' - cách làm sáng tạo trong học và làm theo Bác

'Sổ tiết kiệm Búa liềm vàng' - cách làm sáng tạo trong học và làm theo Bác

Học tập và làm theo gương Bác, tại Đắk Lắk xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, mô hình hay, cách làm sáng tạo, lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nổi bật trong số đó là mô hình “Sổ tiết kiệm Búa liềm vàng” của Thị ủy Buôn Hồ - một sáng kiến phù hợp thực tiễn, thiết thực giúp đỡ đảng viên có hoàn cảnh khó khăn.

'Đổi đời' từ vốn vay chính sách

'Đổi đời' từ vốn vay chính sách

Nhờ tiếp cận hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội, nhiều hộ nghèo, cận nghèo tại An Giang đã mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chương trình tín dụng chính sách đã mở ra cơ hội "đổi đời" cho nhiều hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn tỉnh.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Quy định chặt chẽ hoạt động nuôi, trồng, phát triển và thu hoạch cây dược liệu

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Quy định chặt chẽ hoạt động nuôi, trồng, phát triển và thu hoạch cây dược liệu

Sáng 13/5, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp cho ý kiến về dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, có bổ sung quy định chi tiết về nuôi, trồng phát triển và thu hoạch cây dược liệu trong rừng.

Hỗ trợ người nghèo 'an cư'

Hỗ trợ người nghèo 'an cư'

Đắk Lắk là một địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, với tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao, đặc biệt là ở các huyện vùng sâu, vùng xa, biên giới. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, việc đảm bảo chỗ ở ổn định, an toàn cho các hộ nghèo là nhu cầu bức thiết, tạo tiền đề để người dân an tâm lao động, sản xuất, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Việc xóa nhà tạm, nhà dột nát tại Đắk Nông có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định đời sống cho người dân, trong bối cảnh tỉnh còn nhiều khó khăn và địa hình đồi dốc, chia cắt mạnh. Ảnh: TTXVN phát

Đắk Nông tháo gỡ khó khăn về đất đai, hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm

Việc xóa nhà tạm, dột nát, đẩy nhanh hỗ trợ đất ở, nhà ở cho các hộ dân là ưu tiên hàng đầu của tỉnh Đắk Nông hiện nay. Với sự quan tâm của Trung ương và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, địa phương đặt mục tiêu xóa toàn bộ nhà tạm, dột nát trước ngày 31/12 theo chỉ đạo của Chính phủ.