Ông Lê Hồng Thái, Chủ tịch UBND xã Nhôn Mai, tỉnh Nghệ An cho biết, trước tình trạng địa bàn liên tục xảy ra mưa lớn kèm dông lốc trong thời gian trước đó, trong chiều 21/7, chính quyền và các lực lượng chức năng đã chủ động di dời khẩn cấp 19 hộ dân với 65 khẩu thuộc nhóm dân cư số 1, bản Xói Voi ra khỏi nơi ở, đến nhà văn hóa cộng đồng tạm trú để tránh nguy cơ sạt lở núi, lũ quét.

Bản Xói Voi, xã Nhôn Mai nằm dưới chân núi Phà Mạt, có 70 hộ dân đồng bào dân tộc Khơ Mú sinh sống. Theo bà con cho biết, thời gian gần đây, dãy núi phía sau bản xuất hiện nhiều vết nứt lớn. Đặc biệt, sau đợt mưa lớn kéo dài cuối tháng 5/2025 gây ra lũ quét làm thiệt hại nặng nề, tình trạng sạt lở đất càng trở nên trầm trọng. Gần đây nhất, do ảnh hưởng của cơn bão số 3, từ đêm 19/7 đến nay, trên địa bàn xã thường xuyên có mưa to đến rất to, nguy cơ sạt lở núi cao.
Theo khảo sát thực địa sau lũ quét của chính quyền địa phương xã Nhôn Mai, từ nhóm dân cư số 1 vào phía mái dốc taluy dương của núi Phà Mạt (bản Xói Voi) khoảng 120m theo chiều ngang xuất hiện vết nứt chiều dài khoảng 500m, rộng từ 0,6cm đến hơn 1m, có nhiều đoạn bị tụt xuống so với mặt đất tự nhiên từ 1,05m đến 1,5m. Thổ nhưỡng không còn khả năng kết dính, nguy cơ sụt trượt, sạt lở có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Anh Và Bá Pó, Trưởng bản Xói Voi, xã Nhôn Mai cho biết, từ dưới bản nhìn lên có thể thấy rất nhiều vệt đất loang lổ giữa nền xanh của cây rừng, chảy dọc từ đỉnh núi xuống. Nguy hiểm và đáng sợ hơn là phần đứt gãy chạy ngang thân núi kéo dài với chiều sâu lớn.
Ông Lê Hồng Thái, Chủ tịch UBND xã Nhôn Mai, tỉnh Nghệ An cho biết, từ tối 20/7, trên địa bàn xã Nhôn Mai có mưa lớn kéo dài, thời tiết diễn biến phức tạp. Đặc biệt, dự báo cơn bão số 3 kèm theo mưa lớn, chính quyền xã Nhôn Mai đã huy động dân quân, lực lượng Bộ đội biên phòng Đồn biên phòng Nhôn Mai (Bộ đội biên phòng Nghệ An) triển khai việc di dời người dân khỏi vùng nguy hiểm và dựng lán tạm, bố trí nơi ăn, nghỉ, sinh hoạt cho người dân tại Nhà văn hóa cộng đồng của bản. Việc di dời đã được hoàn tất trong chiều muộn ngày 21/7.

Lãnh đạo chính quyền địa phương trao các nhu yếu phẩm cho người dân di dời đến nơi ở tạm. Ảnh: TTXVN phát
Để đảm bảo an toàn trong quá trình di dời dân, các lực lượng cũng đã hỗ trợ người dân thu dọn tài sản, vận chuyển người và đồ đạc. Quá trình di dời, lãnh đạo Đảng uỷ đã trực tiếp chỉ đạo công tác di dời; thăm hỏi, động viên người dân chấp hành nghiêm lệnh di dời; yêu cầu đảm bảo cơ sở vật chất, nhu yếu phẩm thiết yếu tại điểm ở tạm, đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt, ăn ở của người dân trong trường hợp khẩn cấp.
Cũng theo ông Lê Hồng Thái, Chủ tịch UBND xã Nhôn Mai, trên địa bàn xã Nhôn Mai có 58 hộ với hơn 290 nhân khẩu sinh sống tại các bản làng bị ảnh hưởng bởi tình trạng sạt lở đất; trong đó, có 19 hộ dân bản Xói Voi cần khẩn cấp di dời đến nơi ở mới. UBND xã Nhôn Mai đã có tờ trình gửi UBND tỉnh Nghệ An đề nghị hỗ trợ, tổ chức phương án tái định cư cho nhân dân sớm nhất./.
Tên tự gọi: Kmụ, Kưm Mụ.
Tên gọi khác: Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Mãng Cẩu, Tày Hạy, Mứn Xen, Pu Thềnh, Tềnh.
Dân số: 72.929 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất: Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy nên được gọi là "Xá ăn lửa". Ngoài hình thái du canh du cư là chủ yếu, bộ phận định cư thường canh tác nương theo chu trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các loại cây có củ. Công cụ sản xuất gồm rìu, dao, cuốc, trong đó đáng lưu ý nhất là chiếc gậy chọc lỗ. Hoặc gậy đơn hoặc gậy kép (bịt sắt) có thể dùng nhiều năm. Hái lượm và săn bắn vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Nghề phụ gia đình chủ yếu là đan lát đồ gia dụng. Một số nơi biết thêm nghề rèn, mộc, dệt vải. Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức hàng đổi hàng. Vỏ ốc "kxoong" trước kia được coi như vật ngang giá. Người Khơ Mú chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà phục vụ sức kéo và nhu cầu tiêu dùng, tín ngưỡng.
Ăn: Người Khơ Mú thường đồ xôi hay đồ ngô, độn sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi như chẻo, nậm pịa, cá chua...
Mặc: Người Khơ Mú mặc giống người Thái, nhưng có điều khác là cách trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc ở phía thân áo của phụ nữ. Ngày nay, phần lớn người Khơ Mú, nhất là nam giới đều ăn mặc theo người Việt.
Ở: Hiện nay họ cư trú tại các tỉnh: Yên Bái, Sơn La, Lai Châu. Vì điều kiện du canh, du cư nên bản làng thường nhỏ bé, rải rác. Nhà sàn chủ yếu dùng cột không ngoãm, vách phên, sàn bương. Hiện nay nhiều nơi đã làm nhà khang trang, vững chãi hơn.
Phương tiện vận chuyển: Cơ bản là gùi có dây đeo trên trán, có ách và các loại túi đeo, bộ phận người Khơ Mú làm ruộng dùng thêm sọt gánh.
Quan hệ xã hội: Người Khơ Mú quan hệ chặt chẽ giữa những người đồng tộc và những người láng giềng, nhất là người Thái. Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu nghèo. Những dòng họ người Khơ Mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ... có thể chia làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương... Nhóm tên chim gồm phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp... Nhóm tên cây gồm guột, rau đớn, dương xỉ, tỏi ... Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như: rọ lợn, môi múc canh...
Cưới xin: Hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiếu, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ còn tồn tại như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng... Ðám cưới được tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới ở bên nhà vợ và lễ đón dâu... Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt là ông cậu. Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.
Ma chay: Ðám ma của người Khơ Mú gồm nhiều nghi thức tín ngưỡng. Ðặc biệt bài cúng tiễn hồn người chết kéo dài hàng giờ sau đó mới đem thi hài đi chôn.
Nhà mới: Lên nhà mới là dịp vui của gia đình và cả bản. Chủ nhà thường mổ lợn thiết đãi bà con xóm giềng. Ðây là dịp dân bản trình diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.

Lễ tết: Ngoài tết Nguyên đán ra, người Khơ Mú còn ăn tết cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Ðây là dịp vui của cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết cơm mới của người Khơ Mú thể hiện hiện sắc thái văn hoá tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, trồng trọt.
Thờ cúng: Người Khơ Mú quan niệm có 5 loại ma quan trọng nhất là: ma trời, ma đất, ma thuồng luồng, ma tổ tiên và ma nhà. Ðó là các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận dữ có thể gây tai hoạ trừng phạt con người.
Ngoài lễ cúng mường, người Khơ Mú còn lễ cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong các dịp tết và khi con cháu trong nhà đau ốm. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma dòng họ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.
Lịch: Ngoài theo lịch Thái, người Khơ Mú phổ biến cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để vận dụng trong việc dựng nhà, cưới gả...
Học: Nhiều người biết đọc, viết chữ Thái.
Văn nghệ: Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình. Cách hát theo kiểu đối đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.
Chơi: Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay đánh cầu lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân gian khác.
Theo cema.gov.vn
