Sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai) là địa danh đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Tiếng chày trên Sóc Bom Bo không chỉ là âm thanh của sự sống mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của quân và dân nơi đây. Ngày nay, du khách đến Bom Bo vẫn có thể nghe thấy tiếng chày, tiếng cồng chiêng vang vọng khắp nơi, cảm nhận rõ nét hơi thở văn hóa và lịch sử trên mảnh đất anh hùng.

Sóc Bom Bo không chỉ là nơi bảo tồn văn hóa mà còn là “địa chỉ đỏ” trong giáo dục truyền thống, điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn. Theo ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Ban Quản lý Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo, nơi đây vẫn đang lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của đồng bào S’tiêng. Chương trình “Vang mãi tiếng chày trên Sóc Bom Bo” năm 2024 đã thu hút hàng trăm nghìn người đến tham quan, mang lại sức sống mới cho vùng đất Đông Nam Bộ (Bình Phước cũ).
Điều làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của Sóc Bom Bo chính là việc các thế hệ người dân nơi đây vẫn giữ gìn và phát huy những nét truyền thống độc đáo. Già làng Điểu Lển chia sẻ: "Văn hóa của dân tộc mình phải giữ lại những cái tốt đẹp nhất mà ông cha ta đã để lại. Tôi luôn nhắc nhở con cháu và bà con gìn giữ văn hóa truyền thống để không bị mai một".
Chính nhờ sự tâm huyết của già làng, các thế hệ con cháu đã được truyền dạy các nghề truyền thống như: Dệt thổ cẩm, nghề rèn, nấu rượu cần, đánh cồng chiêng... Anh Điểu Yố, con của già làng Điểu Lên - nghệ nhân đánh cồng chiêng, chia sẻ: "Bản thân tôi luôn gìn giữ bản sắc của dân tộc và tuyên truyền cho các con cháu không được bỏ quên. Những gì mà thế hệ trước để lại, tôi luôn trân trọng và gìn giữ phát huy tốt hơn".
Chị Điểu Thị Xia (38 tuổi) là một trong những người góp phần làm nổi bật giá trị của sự trao truyền văn hóa dân tộc. Dù còn trẻ, nhưng chị đã thành thạo các kỹ năng truyền thống như dệt thổ cẩm, nấu rượu cần. Chị chia sẻ: “Tôi học nghề dệt thổ cẩm từ bà và mẹ từ khi còn nhỏ nên đã đam mê dệt vải từ sớm. Sau này, được các bà, mẹ tiếp tục chỉ dạy, tôi đã làm thành thạo các nghề truyền thống. Hiện tại, tôi cũng đang cố gắng truyền đạt lại cho thế hệ sau để các nghề không bị mai một".
Ông Điểu Nháp, Trưởng ban công tác Mặt trận thôn Bom Bo cho biết: "Nhiều gia đình dân tộc S’tiêng ở đây vẫn gìn giữ văn hóa dân tộc thiểu số. Một số gia đình vẫn truyền dạy cho con cháu tại nhà các nghề truyền thống. Bản thân chúng tôi cũng luôn tuyên truyền, vận động bà con luôn phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc lưu giữ cho đến các thế hệ tiếp theo".
Không gian văn hóa sống động, điểm hẹn du lịch độc đáo
Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng tại xã Bom Bo được xây dựng từ năm 2012, trên diện tích hơn 113 ha. Đây là không gian văn hóa đặc sắc, với hơn 300 hiện vật, tư liệu quý giá, hai khu vực chính gồm không gian trưng bày và khu lễ hội - nhà dài truyền thống. Các hiện vật tái hiện sinh động đời sống, phong tục tập quán và lịch sử hào hùng của người S’tiêng.

Du khách tham quan Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo.
Thời gian qua, Khu bảo tồn đã thu hút lượng lớn du khách đến từ nhiều địa phương. Ngoài khách tham quan, đây còn là điểm đến học tập kinh nghiệm, tổ chức hoạt động ngoại khóa, giáo dục truyền thống cách mạng. Chị Nguyễn Hiền (tỉnh Lâm Đồng) lần đầu tiên đến với Sóc Bom Bo chia sẻ: "Tôi đã nghe nhiều về Sóc Bom Bo, đây là lần đầu tiền đặt chân đến vùng đất này và cảm nhận về văn hóa của đồng bào thiểu số tại đây rất thú vị. Những đồ vật được trưng bày rất phong phú, mới lạ".
Em Điểu Gia Bảo, học sinh tại xã Phú Nghĩa bày tỏ bất ngờ khi tận mắt thấy nhiều hiện vật và hình ảnh về dân tộc mình. Qua đó, em hiểu thêm về đời sống, sinh hoạt truyền thống.
Tại khu trưng bày, hướng dẫn viên trực tiếp giới thiệu các khu vực hiện vật, giúp du khách hiểu rõ hơn về lịch sử, ý nghĩa từng hiện vật. Cùng với việc đầu tư phục dựng, tôn tạo và bổ sung trưng bày hiện vật, Ban Quản lý Khu bảo tồn đã không ngừng đổi mới, lồng ghép các hoạt động quảng bá nhằm thu hút du khách. Đặc biệt, Ban còn kết nối với các hiệp hội và công ty du lịch để tăng lượng khách và tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa.
Chị Hoài Thị Thu Hương, hướng dẫn viên Khu bảo tồn Văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo cho biết: "Du khách đến với Sóc Bom Bo những ngày cuối tuần khá đông. Chúng tôi kết nối với các công ty du lịch đưa các đoàn khách về tham quan Sóc Bom Bo. Ngoài ra, khu bảo tồn còn đón lượng lớn các cơ quan, người uy tín, học sinh về tham quan và học tập kinh nghiệm ở Sóc Bom Bo".
Ngoài không gian trưng bày của Khu bảo tồn, du khách tham quan sẽ được nghe biểu diễn bài đàn đá tiếng chày trên Sóc Bom Bo, chiêm ngưỡng bộ đàn đá nặng 20 tấn và bộ cồng chiêng lớn nhất Việt Nam. Trong hai căn nhà dài truyền thống, nhiều hình ảnh, hiện vật gắn với kháng chiến, được lưu giữ hoặc phục dựng đã giúp du khách cảm nhận sâu sắc hơn đời sống văn hóa và lịch sử nơi đây.

Du khách tham quan không gian trưng bày văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo.
Không chỉ là nơi trưng bày, Khu bảo tồn còn là không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi người dân S’tiêng gìn giữ, trao truyền và phát huy các nghề truyền thống như nấu rượu cần, dệt thổ cẩm, đan lát, rèn thủ công, cùng những món ăn dân tộc đặc trưng.
Ông Phạm Anh Tuấn, Trưởng Ban quản lý Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo cho biết: "Chúng tôi đã tổ chức nhiều sự kiện để cho nghệ nhân có nơi biểu diễn nghệ thuật, quảng bá những nét văn hóa độc đáo cho du khách. Trong thời gian tới, thực hiện công tác hợp nhất, chúng tôi cũng đang tham mưu cho địa phương về cái kế hoạch phát triển văn hóa gắn với phát triển du lịch tại địa phương".
Hình ảnh Sóc Bom Bo xưa và nay ít nhiều đã được tái hiện sinh động tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo. Với sự đầu tư cùng như cách làm sáng tạo, sự đồng hành của cộng đồng dân tộc S’tiêng, nơi đây không chỉ lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số mà còn trở thành điểm đến du lịch văn hóa đặc sắc của tỉnh Đồng Nai./.
Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.
Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.
Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.
Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.
Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).
Ở: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.
Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.
Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.
Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...
Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.
Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".
Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.
Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.
Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.
Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.
Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.
Theo cema.gov.vn
