Sức hấp dẫn của danh thắng Ao Bà Om

Ao Bà Om (phường 8, thành phố Trà Vinh) được công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1994 là một danh thắng nổi tiếng không chỉ của tỉnh Trà Vinh mà của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Danh thắng quốc gia Ao Bà Om nổi tiếng Đồng bằng sông Cửu Long ở phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Danh thắng quốc gia Ao Bà Om nổi tiếng Đồng bằng sông Cửu Long ở phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Danh thắng Ao Bà Om gắn với truyền thuyết của người Khmer, phán ánh sự phong phú và đa dạng của văn hóa dân gian dân tộc bản địa. Toàn bộ khu vực Ao Bà Om có hình vuông (còn gọi là Ao Vuông) rộng hơn 300 ha, bao gồm ba phần chính là ao, bờ và rừng cây cổ thụ bao quanh. Ao nước ngọt ở trung tâm danh thắng có diện tích 15 ha, độ sâu khoảng 2 m. Đặc biệt, rừng cây quanh ao có khoảng 500 cổ thụ sao, dầu, tuổi thọ hàng trăm tuổi với bộ rễ nổi lên khỏi mặt đất có những hình thù kỳ lạ, độc đáo, tạo sức hấp dẫn riêng có của danh thắng Ao Bà Om, luôn thu hút người dân và khách du lịch đến vui chơi, khám phá.

Danh thắng quốc gia Ao Bà Om là điểm đến hấp dẫn khách du lịch ở tỉnh Trà Vinh.

Danh thắng quốc gia Ao Bà Om là điểm đến hấp dẫn khách du lịch ở tỉnh Trà Vinh.

Danh thắng Ao Bà Om gắn với truyền thuyết của người Khmer, phán ánh sự phong phú và đa dạng của văn hóa dân gian dân tộc bản địa.

Danh thắng Ao Bà Om gắn với truyền thuyết của người Khmer, phán ánh sự phong phú và đa dạng của văn hóa dân gian dân tộc bản địa.

ba-om-1625.jpg
Mặt nước Ao Bà Om phẳng lặng, phủ đầy sen, súng.
ba-om5-1625.jpg
Con đường nhỏ chạy quanh Ao Bà Om cũng là lối đi cho người dân địa phương.
ba-om4-1625.jpg
Ao Bà Om râm mát quanh năm.
ba-om1-1625.jpg
Xung quanh ao nước ngọt có con đường đi nhỏ, cũng là nơi để người dân và khách du lịch dạo chơi, hóng mát.
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Ấn tượng gian hàng trưng bày, quảng bá sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của tỉnh Gia Lai

Ấn tượng gian hàng trưng bày, quảng bá sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của tỉnh Gia Lai

Gian hàng trưng bày, quảng bá sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của tỉnh Gia Lai nằm trong phân khu "Thu đất Việt - Sắc nước hương thu" tại Hội chợ Mùa thu 2025 đang diễn ra tại Trung tâm triển lãm Quốc gia (Đông Anh, Hà Nội) mang đến nhiều ấn tượng cho người dân và du khách bởi các sản vật địa phương đa dạng cùng với bản sắc văn hoá độc đáo.

Chùa Som Rong - nơi lưu giữ các giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc của đồng bào Khmer

Chùa Som Rong - nơi lưu giữ các giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc của đồng bào Khmer

Chùa Som Rong (tên gọi đầy đủ là Wat Pătum Wôngsa Som Rông), tọa lạc ở phường Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng. Ngôi chùa nổi bật với kiến trúc độc đáo, thiết kế hài hòa giữa nét truyền thống và hiện đại, không chỉ là địa điểm hành hương mà còn là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc của đồng bào Khmer.

Đổi thay ở vùng đồng bào dân tộc Mảng

Đổi thay ở vùng đồng bào dân tộc Mảng

Được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, những năm qua, đời sống, diện mạo bản làng của đồng bào dân tộc Mảng tại xã Lê Lợi, tỉnh Lai Châu, đang dần thay đổi. Từ các nguồn vốn hỗ trợ, nhiều mô hình phát triển kinh tế của người dân đã triển khai hiệu quả, giúp người dân tăng thêm nguồn thu nhập vươn lên thoát nghèo, đồng thời thay đổi tư duy nhận thức về phát triển kinh tế từ nhỏ lẻ, manh mún sang phát triển kinh tế hợp tác, liên kết.

Nghi lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền

Nghi lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền

Nghi lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ) - nay thuộc tỉnh Phú Thọ, là một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh đời sống tinh thần, tín ngưỡng của cộng đồng người Dao Tiền. Người Dao Tiền nơi đây quan niệm hôn nhân không chỉ là việc riêng của đôi lứa mà còn là chuyện trọng đại của hai gia đình, hai dòng họ. Truyền thống hôn nhân một vợ một chồng, cùng dân tộc nhưng ngoại hôn dòng họ được duy trì nghiêm ngặt qua nhiều thế hệ. 

Tái hiện Lễ cúng giọt nước của đồng bào Ba Na

Tái hiện Lễ cúng giọt nước của đồng bào Ba Na

Ngày 19/10/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) diễn ra hoạt động tái hiện Lễ cúng giọt nước của đồng bào Ba Na, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ được tổ chức nhằm mục đích cầu Thần nước (Yang Ia) ban cho nguồn nước dồi dào để phục vụ sinh hoạt, canh tác, sản xuất. Lễ cúng giọt nước là một biểu tượng văn hóa độc đáo, thể hiện tính cố kết cộng đồng của đồng bào Ba Na cùng với ước vọng đón chờ một mùa vụ mới thuận lợi, bội thu.

Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa hoàn thành tốt nhiệm vụ, giúp dân phát triển kinh tế

Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa hoàn thành tốt nhiệm vụ, giúp dân phát triển kinh tế

Với nhiệm vụ trọng tâm là quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh biên giới quốc gia, những năm qua, Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa luôn làm tốt công tác tham mưu, phối hợp với các lực lượng tuyên truyền cho nhân dân nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng về xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh; quản lý chặt địa bàn, triển khai hiệu quả và đề ra các giải pháp phù hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; đấu tranh phòng chống tội phạm và giúp nhân dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo ổn định đời sống.

Các trường học ở Cao Bằng khắc phục hậu quả cơn bão số 11

Các trường học ở Cao Bằng khắc phục hậu quả cơn bão số 11

Các trường học bị ảnh hưởng bởi hoàn lưu bão số 11 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã huy động cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường, cùng các ban, ngành, đoàn thể, lực lượng vũ trang, phụ huynh học sinh tiến hành xịt rửa bùn đất trong khuôn viên sân trường, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng học tập, bảo đảm các điều kiện tốt nhất để học sinh trở lại trường học trong thời gian sớm nhất.

Cuộc sống khó khăn của người dân bản Na Ngân do bị cô lập giữa đại ngàn Pù Huống

Cuộc sống khó khăn của người dân bản Na Ngân do bị cô lập giữa đại ngàn Pù Huống

Dù đã bước sang ngày thứ 9 sau trận lũ ống, lũ quét lịch sử nhưng bản Na Ngân (Nghệ An), nơi có 153 hộ dân với 730 nhân khẩu đồng bào Thái, vẫn bị cô lập hoàn toàn do đường đất độc đạo dài 24km nối với trung tâm xã bị chia cắt bởi những điểm sạt lở núi nghiêm trọng chưa được khắc phục.

Nghệ An: Xã miền núi Nga My thiệt hại nặng nề do lũ ống, lũ quét

Nghệ An: Xã miền núi Nga My thiệt hại nặng nề do lũ ống, lũ quét

Sáng 29/9/2025, tại xã Ngay My (tỉnh Nghệ An) xảy ra mưa lớn, nước từ thượng nguồn ồ ạt đổ về khiến các khe, suối trên địa bàn đột ngột dâng cao, chảy xiết, xảy ra lũ ống, lũ quét trên diện rộng gây ngập lụt hàng trăm ngôi nhà, hơn 50 ngôi nhà bị hư hại, trong đó có 3 nhà bị lũ cuốn trôi toàn bộ nhà cửa, tài sản, 2 nhà phải di dời khẩn cấp, nhiều nhà hư hỏng nặng; quốc lộ 48C qua địa bàn xuất hiện nhiều điểm ngập khiến giao thông bị tê liệt; toàn xã bị mất điện trong nhiều ngày; 2 cầu dân sinh và 3 cầu tạm bị lũ cuốn trôi, 1 cầu tràn hư hỏng nặng.

Mưa lũ làm đứt gãy tuyến đường 433, nhiều xã vùng cao Phú Thọ bị cô lập

Mưa lũ làm đứt gãy tuyến đường 433, nhiều xã vùng cao Phú Thọ bị cô lập

Ngày 1/10/2025, do ảnh hưởng của bão số 10 gây ra mưa lớn kéo dài, nhiều khu vực trên tuyến đường Tỉnh lộ 433 đi các xã Cao Sơn, Tân Pheo, Quy Đức, Đức Nhàn (Phú Thọ) đã xảy ra tình trạng hàng chục điểm sạt lở đất, đá với khối lượng hàng nghìn m3, gây đứt gãy giao thông. Nhiều xã trong tình trạng bị cô lập cục bộ.

Độc đáo cọn nước của đồng bào Thái

Độc đáo cọn nước của đồng bào Thái

Văn minh lúa nước gắn liền với đồng bào Thái ở miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An từ bao đời nay. Do diện tích trồng lúa nước thường là những thửa ruộng bậc thang theo dưới chân núi, bên khe suối… nên người dân đã chế tác và sử dụng “cọn nước” để đưa nước từ các khe suối, dòng sông lên những khu vực cao hơn theo hình thức tự chảy, cung cấp nước tưới cho ruộng đồng.

Rực rỡ mùa lúa chín dưới chân Tây Côn Lĩnh

Rực rỡ mùa lúa chín dưới chân Tây Côn Lĩnh

Vào mùa thu, vùng biên Xà Phìn tại xã Thanh Thủy (Tuyên Quang) nhuộm màu vàng óng của những thửa ruộng bậc thang đang vào chín tạo nên bức tranh toát lên vẻ đẹp yên bình nơi phên dậu Tổ quốc. Đây cũng là địa điểm thu hút du khách và nhiếp ảnh gia tìm đến để lưu giữ khoảnh khắc tuyệt đẹp này.

Vẻ đẹp của đập Thủy điện Nậm Chiến

Vẻ đẹp của đập Thủy điện Nậm Chiến

Thủy điện Nậm Chiến được xây dựng trên dòng suối Chiến, nằm ở vùng đất của các xã Ngọc Chiến và Chiềng Muôn, huyện Mường La (Sơn La) - một trong những công trình được đánh giá khó thi công bậc nhất ở Việt Nam. Với thiết kế công trình đập chính là đập vòm bê tông, có chiều cong hướng về phía thượng lưu với chiều cao 135m, là loại đập lần đầu tiên được thiết kế và xây dựng có dạng vòm lớn nhất tại Việt Nam.

Mùa vàng ở Ngọc Chiến, Sơn La

Mùa vàng ở Ngọc Chiến, Sơn La

Xã Ngọc Chiến, tỉnh Sơn La có khí hậu quanh năm mát mẻ, là vùng đất lý tưởng trồng lúa, nhất là các giống lúa nếp. Cuối tháng 8, đầu tháng 9 hàng năm, xã Ngọc Chiến lại khoác lên mình một màu vàng rực rỡ của mùa lúa chín trải dài khắp các triền ruộng như bức tranh sống động giữa núi rừng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, du lịch.

Rộn ràng mùa cá linh non nơi đầu nguồn châu thổ Cửu Long

Rộn ràng mùa cá linh non nơi đầu nguồn châu thổ Cửu Long

Đối với người dân Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là các địa phương vùng đầu nguồn biên giới Tây Nam như An Giang, Đồng Tháp, mùa nước nổi (mùa lũ) về mang theo nhiều sản vật cá tôm, nhưng thứ được người ta trông chờ hơn cả là cá linh non - một đặc sản trứ danh, riêng chỉ có ở miền Tây Nam Bộ.

Tết Độc lập của người Mông ở xóm vùng cao Đà Vĩ

Tết Độc lập của người Mông ở xóm vùng cao Đà Vĩ

Hòa chung niềm vui của cả nước, chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), khu hạ sơn của đồng bào Mông ở xóm Đà Vĩ, xã Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng cũng ngập tràn sắc đỏ cờ Đảng, cờ Tổ quốc, nhân dân náo nức đón Tết Độc lập.