Đồng bào Khmer ở Cà Mau có trên 32.000 hộ với gần 140.000 nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số. Những năm qua, với sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực vươn lên, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào không ngừng được cải thiện. Đặc biệt, việc hỗ trợ sinh kế thông qua nguồn vốn tín dụng chính sách đã mang lại cho nhiều gia đình Khmer cơ hội thoát nghèo.

Sử dụng vốn hiệu quả
Những ngày này, gia đình anh Sơn Seng (khóm Giồng Giữa A, phường Hiệp Thành) đang tất bật chăm sóc vụ hành sắp bước vào thu hoạch. Công việc tuy vất vả nhưng ai nấy đều rất vui vì trúng mùa lại được giá. Ba năm trước, anh Seng thuộc diện hộ nghèo, có đất sản xuất nhưng thiếu vốn. Được Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố Bạc Liêu cũ cho vay 15 triệu đồng từ nguồn vốn tín dụng chính sách, anh Seng cải tạo đất rẫy trồng hành và ớt. Sản xuất hiệu quả, anh Seng trả nợ vay đúng hạn. Sau lần vay đầu tiên, gia đình anh Seng lần lượt được vay thêm nhiều lần với số tiền vay sau cao hơn trước.
Bệ đỡ từ nguồn vốn chính sách xã hội không chỉ giúp gia đình anh Seng sản xuất hiệu quả, thoát được nghèo, mà còn có vốn tích lũy đầu tư máy móc, cơ giới hóa trong sản xuất. Anh Seng cũng được tín nhiệm làm Tổ trưởng Tổ vay vốn, với trên 50 tổ viên là đồng bào dân tộc Khmer của khóm. Các thành viên trong tổ đều sản xuất hiệu quả, thoát nghèo vươn lên trong cuộc sống.
Không riêng gì anh Seng, nhiều hộ gia đình đồng bào Khmer khác cũng thoát nghèo từ vốn vay tín dụng chính sách. Ông Lý Tỷ (khóm Biển Đông A, phường Hiệp Thành, tỉnh Cà Mau) cho biết, năm 2020, ông được Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bạc Liêu cũ hỗ trợ cho vay 60 triệu đồng để phát triển sản xuất. Từ nguồn vốn này, ông đầu tư cải tạo 3 công đất để trồng trên 100 gốc nhãn. Sau hai năm, nhãn cho trái, gia đình ông thu hoạch mỗi năm hai vụ, trừ chi phí, lợi nhuận thu về hơn 50 triệu đồng/năm. Bên cạnh cây nhãn, ông Tỷ còn trồng rau màu, trung bình mỗi ngày gia đình có thu nhập từ 200.000 - 300.000 đồng. Lợi nhuận từ trồng nhãn và rau màu hằng năm trên 100 triệu đồng, không chỉ giúp cho gia đình ông Tỷ thoát nghèo mà còn có vốn tích lũy mua sắm các vật dụng phục vụ sinh hoạt gia đình.
“Nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội không chỉ mang lại cơ hội thoát nghèo, phát triển kinh tế cho gia đình tôi, mà còn nhiều hộ gia đình Khmer khác trong khóm. Được tiếp cận nguồn vốn này, người dân không phải vay bên ngoài với lãi suất cao”, ông Lý Tỷ chia sẻ.

Ngân hàng chính sách xã hội Bạc Liêu (tỉnh Cà Mau) tổ chức ký kết hợp đồng ủy thác cho vay với các tổ chức chính trị xã hội. Ảnh: TTXVN phát
Ông Dương Quốc Khải, Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Bạc Liêu (tỉnh Cà Mau) cho biết, những năm qua, việc hỗ trợ người dân, đặc biệt là hộ đồng bào dân tộc Khmer tiếp cận vốn vay ưu đãi được đơn vị triển khai kịp thời. Các chương trình vay vốn đều được ủy thác thông qua tổ chức hội, đoàn thể, các tổ tiết kiệm. Hiện, Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Bạc Liêu quản lý trên 10 nghìn hộ gia đình, trong đó có trên 3 nghìn hộ người Khmer.
Đánh giá về hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi chính sách xã hội trong đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, ông Dương Quốc Khải cho rằng: “Nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Đặc biệt, nguồn vốn vay ưu đãi đã giúp người dân nói chung, đồng bào dân tộc Khmer nói riêng có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ được vay vốn với lãi suất ưu đãi, nhiều gia đình có tiền đầu tư mua sắm cây trồng, vật nuôi cùng như các công cụ, vật tư phục vụ sản xuất” .
Tại Hưng Hội, xã có đông đồng bào dân tộc Khmer nhất của tỉnh Cà Mau, ông Nguyễn Hoàng Em, Phó Chủ tịch UBND xã chia sẻ, để giúp đồng bào dân tộc Khmer có điều kiện phát triển kinh tế gia đình, Đảng ủy, UBND xã chủ động chỉ đạo các đoàn thể chính trị, xã hội của xã xây dựng kế hoạch, triển khai đưa nguồn vốn vay ưu đãi đến với các hộ thuộc diện được thụ hưởng để thực hiện tốt công tác giảm nghèo.
Vận dụng chính sách hiệu quả

Từ nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, nhiều hộ gia đình Khmer của phường hiệp Thành (tỉnh Cà Mau) có điều kiện đầu tư phát triển mô hình trồng cây ăn quả, nâng cao thu nhập. Ảnh: Tuấn Kiệt/TTXVN
Theo ông Nguyễn Hoàng Em, để phát huy hiệu quả nguồn vốn vay, các hội, đoàn thể thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn những hộ vay vốn sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, hiệu quả. Nguồn vốn vay tín dụng chính sách xã hội đã giúp nhiều hộ dân ở Hưng Hội thoát nghèo. Nếu như trước đây, Hưng Hội có tỷ lệ hộ nghèo khá cao thì nay đã giảm xuống chỉ còn 1%. Nhiều hộ vươn lên mức sống trung bình, khá. Nhiều hộ có thu nhập cả tỷ đồng mỗi năm.
Ông Lương Văn Pho, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Cà Mau cho biết, những năm qua, cùng với các chương trình an sinh xã hội, nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội đã trở thành "điểm tựa" quan trọng giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo, nhất là các hộ trong vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình, nâng cao đời sống và từng bước thoát nghèo bền vững. Hiện nay, hộ nghèo trong đồng bào Khmer tại Cà Mau đã giảm xuống còn gần 2,3% tổng số hộ người Khmer tại tỉnh. Hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ưu đãi từ những hộ Khmer nghèo ở Cà Mau là minh chứng cho thấy vai trò quan trọng của tín dụng chính sách đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2026 – 2030, tỉnh Cà Mau phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer xuống còn dưới 1 %, vùng đồng bào dân tộc thiểu số không còn địa bàn đặc biệt khó khăn.

Chăn nuôi lợn là một trong những mô hình giúp nhiều hộ gia đình người Khmer giảm nghèo, phát triển kinh tế. Ảnh: Tuấn Kiệt/TTXVN
Để thực hiện mục tiêu này, Sở Dân tộc và Tôn giáo sẽ tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh Cà Mau chỉ đạo rà soát, triển khai áp dụng thực hiện các cơ chế chính sách theo quy định và văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh.
Cùng với đó, Sở phối hợp các cấp, ngành đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đồng bào dân tộc Khmer về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giảm nghèo; quan tâm hơn nữa tới phát triển giáo dục, nâng cao dân trí; nâng cao thể chất lực lượng lao động; đào tạo nghề, việc làm, hỗ trợ sinh kế cho người nghèo vùng dân tộc Khmer. Đặc biệt, Sở phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng chính sách trong giai đoạn mới. Theo đó, các đơn vị tiếp tục rà soát, thẩm định các hộ đủ điều kiện vay vốn theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP của Chính phủ, kịp thời giải ngân các nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất.
Nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội có vai trò hết sức quan trọng, góp phần giúp người nghèo và các đối tượng chính sách khác có có vốn làm ăn, có việc làm, vươn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế gia đình./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
