Ẩn mình giữa dãy Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, ở độ cao trên 1.000 m, thôn Xà Phìn (xã Thanh Thủy, tỉnh Tuyên Quang) hiện lên như một bức tranh cổ tích giữa đại ngàn.

Những mái nhà lợp lá cọ phủ rêu xanh trầm mặc, thấp thoáng trong làn sương sớm, bên những thửa ruộng bậc thang uốn lượn ôm trọn sườn núi. Vào mùa thu, cả Xà Phìn bừng sáng trong sắc vàng óng ả của lúa chín, mở ra khung cảnh ngoạn mục khiến bất kỳ ai đặt chân đến cũng phải say lòng.
Đây cũng là thời khắc bản làng náo nức chuẩn bị cho Lễ hội Mùa vàng - Làng nhà rêu, sẽ diễn ra vào ngày 4/10/2025. Lễ hội không chỉ là dịp để du khách hòa mình vào không khí hân hoan mừng vụ mùa bội thu, khoác lên mình trang phục truyền thống của người Dao áo chàm, thưởng thức những món ăn dân dã mà còn là cơ hội để trải nghiệm văn hóa bản địa đậm đà bản sắc.
Bản làng bừng sáng giữa đại ngàn Tây Côn Lĩnh
Những ngày này, cung đường dài hơn 20 km dẫn vào thôn Xà Phìn như được dát vàng bởi sắc lúa chín trải dài bất tận. Nhìn từ trên cao, từng thửa ruộng bậc thang uốn lượn tầng tầng lớp lớp, tựa dải lụa vàng mềm mại vắt ngang triền núi. Giữa biển lúa vàng, những mái nhà rêu hiện lên bình yên, tạo nên bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và bàn tay lao động khéo léo của con người.
Ông Phùng Viết Vinh, Bí thư Đảng ủy xã Thanh Thủy cho biết: “Chúng tôi xác định lễ hội năm nay không chỉ là hoạt động văn hóa, mà còn là bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch cộng đồng. Xã đang tập trung phối hợp các đơn vị kinh doanh dịch vụ, homestay, nhà hàng… để chuẩn bị chu đáo, tạo dấu ấn đẹp trong lòng du khách. Bản sắc văn hóa của đồng bào Dao áo chàm và cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ chính là lợi thế đặc biệt của Xà Phìn”.
Đặc sản nơi đây không chỉ nằm ở phong cảnh mà còn trong từng trải nghiệm. Người dân Xà Phìn thường chỉ gieo cấy một vụ lúa mỗi năm. Mùa hè là mùa nước đổ, khi những thửa ruộng phản chiếu trời mây như tấm gương khổng lồ. Đến tháng 9, lúa bắt đầu chín vàng, biến Xà Phìn thành một “biển vàng” đẹp ngoạn mục. Không chỉ có lúa, nơi đây còn nổi tiếng với chè Shan tuyết cổ thụ - mỗi chén trà mang vị chát dịu, hậu ngọt, như kết tinh hồn cốt của núi rừng Tây Côn Lĩnh.
Gìn giữ bản sắc, nâng tầm du lịch cộng đồng

Ngôi nhà nhỏ nép mình bình yên giữa biển lúa vàng, nơi thiên nhiên và con người cùng viết nên bức tranh mùa thu Xà Phìn.
Xà Phìn còn níu chân du khách bởi nét văn hóa đậm đà bản sắc. Người dân gắn bó với rừng, với núi và với những mái nhà phủ rêu - biểu tượng đặc trưng của vùng đất này. Trong căn nhà rêu trăm tuổi, chị Lý Thị Thêu, người dân bản địa, bồi hồi nói: “Chúng tôi tự hào về bản làng của mình. Mái nhà rêu, ruộng bậc thang hay bộ trang phục Dao áo chàm đều là di sản cha ông để lại. Dù cuộc sống hiện đại thay đổi nhiều, nhưng bà con vẫn cố gắng gìn giữ nét văn hóa truyền thống, để con cháu và du khách đến đây đều cảm nhận được hồn cốt Xà Phìn”.
Trong lễ hội, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn được hòa mình vào các hoạt động văn hóa sôi động: khoác lên mình trang phục truyền thống, thưởng thức món ăn dân dã, tham gia giã bánh dày, nấu rượu ngô hay cùng bà con ca hát, nhảy múa bên bếp lửa. Đây là cơ hội để quảng bá giá trị văn hóa bản địa và khẳng định sức sống lâu bền của những truyền thống quý báu.
Chị Nguyễn Thị Kiều Anh, một du khách đến từ miền sông nước Cần Thơ, hào hứng chia sẻ: “Ở đồng bằng, chúng tôi quen với những cánh đồng phẳng lặng, bát ngát. Lần đầu tiên được chiêm ngưỡng ruộng bậc thang uốn lượn giữa núi rừng, tôi thật sự choáng ngợp. Người Xà Phìn hiền hòa, mến khách, ẩm thực nơi đây lại đặc biệt hấp dẫn. Nhất định tôi và người thân sẽ còn quay trở lại để tiếp tục trải nghiệm, khám phá, được sống trọn vẹn vẻ đẹp nơi này".
Mùa thu nơi Xà Phìn không chỉ đẹp ở sắc vàng của lúa chín mà còn ở nhịp sống bình yên và tình người đậm sâu. Khi những nếp nhà rêu phong đứng vững cùng năm tháng, khi tiếng cười nói rộn ràng hòa cùng hương lúa mới, du khách sẽ cảm nhận được sự giao hòa tuyệt diệu giữa thiên nhiên và văn hóa.
Lễ hội Mùa vàng - Làng nhà rêu Xà Phìn 2025 không chỉ là nơi để du khách thưởng ngoạn cảnh sắc mà còn là hành trình kết nối với lịch sử và con người nơi đây. Hãy xách ba lô lên và về với Xà Phìn - nơi mỗi bậc thang lúa là một nét vẽ, mỗi mái nhà là một câu chuyện, để bạn tìm thấy sự an yên và ký ức khó quên giữa đại ngàn hùng vĩ nơi địa đầu cực Bắc của Tổ quốc./.
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn
