Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh

Các đội tham gia thi đấu tại Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu
Các đội tham gia thi đấu tại Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu

Sáng ngày 23-4, tại TP. HCM, chín đội đua ghe Ngo đến từ năm tỉnh thành đã tranh tài sôi nổi trên kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, tuyến kênh chảy qua khu vực trung tâm của thành phố. Phóng viên Báo ảnh Dân tộc và Miền núi đã ghi nhận những hình ảnh về hoạt động này.

9 đội ghe đến Bình Dương, Tây Ninh, Kiên Giang, Bình Phước và Tp. Hồ Chí Minh đã tham gia Lễ hội đua ghe Ngo mở rộng lần thứ nhất năm 2023.

Lễ hội nhằm góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa đồng bào Khmer Nam bộ. Tăng cường giao lưu văn hóa, học tập, trao đổi kinh nghiệm giữa các dân tộc, quảng bá tiềm năng và lợi thế hình ảnh du lịch thành phố Hồ Chí Minh, điểm đến an toàn, thân thiện, nghĩa tình cho bạn bè trong nước và quốc tế.

Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 1Tiết mục múa Khmer truyền thống tại buổi khai mạc Lễ hội đua ghe Ngo lần thứ nhất tại Tp. Hồ Chí Minh. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 2Các đội ghe tham gia Lễ hội đua ghe Ngo lần thứ nhất tại Tp. Hồ Chí Minh. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 3Các đội ghe tranh tài trên kênh Nhiêu Lộc, đoạn từ cầu Công Lý đến cầu Lê Văn Sỹ (Quận 3). Ảnh An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 4Các đội tham gia thi đấu tại Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu 
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 5Lễ hội đua ghe Ngo thu hút hàng trăm người dân Tp. Hồ Chí Minh đến cổ vũ. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 6Đồng bào Khmer thích thú xem đua ghe Ngo tại Lễ hội đua ghe Ngo tại Tp. Hồ Chí Minh. Ảnh: An Hiếu 
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 7Quang cảnh Lễ hội đua ghe Ngo lần thứ nhất được diễn ra tại Tp. Hồ Chí Minh. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 8Người dân Tp. Hồ Chí Minh cổ vũ cho các đội đua tại Lễ hội đua ghe Ngo lần thứ nhất. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 9Các vận động viên hai đội bức tốc về đích tại Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 10Các vận động viên tranh tài tại Lễ Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 11Trao thưởng cho các đội đạt giải khuyết khích tại Lễ hội đua ghe Ngo. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 12Trao phần thưởng cho đội ghe đạt giải ba. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 13Đội Thôn Dôn đến từ Rạch Giá, Kiên Giang về nhì. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 14Ban tổ chức trao giải nhất cho đội Kha Lang Mương đến từ huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Ảnh: An Hiếu
Hội ghe Ngo giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh ảnh 15Niềm vui nhận được giải nhất của đội Kha Lang Mương đến từ huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Ảnh: An Hiếu 

Đua ghe ngo nằm trong chuỗi sự kiện chào mừng Kỷ niệm 48 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2023), Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer, Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4).

An Hiếu (thực hiện)

(Báo ảnh DT&MN)
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Khẩn trương tháo gỡ khó khăn, quyết liệt hoàn thành xóa nhà tạm

Khẩn trương tháo gỡ khó khăn, quyết liệt hoàn thành xóa nhà tạm

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương và sự đồng lòng của người dân, công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát tại tỉnh Thái Nguyên đang về đích đúng tiến độ, mang lại niềm hy vọng mới cho hàng trăm hộ nghèo trên địa bàn. Hoạt động này giúp các gia đình có hoàn cảnh khó khăn ổn định cuộc sống và vươn lên phát triển kinh tế.

Đa dạng dịch vụ, xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng

Đa dạng dịch vụ, xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp thông tin, từ đầu năm đến nay, khách du lịch đến tỉnh tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là tín hiệu vui cho ngành Du lịch tỉnh nhờ những nỗ lực xây dựng, quảng bá cũng như đầu tư, xây dựng sản phẩm đặc trưng, mang bản sắc riêng của địa phương, tạo bước đột phá mới trong bản đồ du lịch khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Di sản văn hóa Lào Cai - 'Mỏ vàng' phát triển du lịch

Di sản văn hóa Lào Cai - 'Mỏ vàng' phát triển du lịch

Tỉnh Lào Cai hiện có 56 di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 3 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; là tỉnh dẫn đầu cả nước về số lượng di sản văn hóa phi vật thể. Địa phương đang tích cực bảo tồn, vun đắp, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc tiêu biểu; biến di sản thành tài sản, coi đây là mỏ vàng để phát triển du lịch.

Dư địa lớn để du lịch Lào Cai tăng tốc

Dư địa lớn để du lịch Lào Cai tăng tốc

Du lịch Lào Cai tiếp tục ghi nhận tín hiệu tăng trưởng tích cực trong 6 tháng đầu năm 2025, đặc biệt là sự gia tăng ổn định ở cả hai phân khúc là khách có lưu trú và khách trải nghiệm.

Khuổi My lấp lánh mùa nước đổ

Khuổi My lấp lánh mùa nước đổ

Từ bao đời nay, ruộng bậc thang không chỉ là nơi canh tác phù hợp với địa hình miền núi, mà còn là biểu tượng sống động cho sự kết tinh giữa con người và thiên nhiên nơi địa đầu Tổ quốc.

Liên kết phát triển Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn

Liên kết phát triển Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn

Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn hội tụ đầy đủ các giá trị về địa tầng cổ đại, hóa thạch quý hiếm, di tích khảo cổ và bản sắc văn hóa các dân tộc. Những giá trị nổi bật, riêng có này là điều kiện thuận lợi để khai thác, phát triển du lịch, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân. Đây là đánh giá của các nhà nghiên cứu, đại diện cơ quan quản lý văn hóa, du lịch trong nước tại Tọa đàm “Xây dựng và phát triển Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn”, do Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tổ chức chiều 28/6.

Cơ hội cho du lịch Kon Tum bứt phá sau hợp nhất tỉnh

Cơ hội cho du lịch Kon Tum bứt phá sau hợp nhất tỉnh

Kon Tum là vùng đất chứa đựng những giá trị văn hóa đặc sắc của 43 dân tộc anh em; trong đó có 7 dân tộc thiểu số tại chỗ. Thiên nhiên ban tặng cho tỉnh những cảnh sắc hoang sơ, những cánh rừng nguyên sinh màu mỡ, trải dài từ đỉnh núi Ngọc Linh xuống tận Cao nguyên Pleiku. Chính những điều này đã tạo nên một vùng đất đầy những điều thú vị cho du khách khám phá, trải nghiệm.

Xây dựng sản phẩm đặc trưng gắn với trải nghiệm văn hóa dân tộc

Xây dựng sản phẩm đặc trưng gắn với trải nghiệm văn hóa dân tộc

Sáu tháng đầu năm 2025, ngành Du lịch tỉnh Hòa Bình đã có những bước tăng trưởng tích cực khi đón hơn 3 triệu lượt khách, tăng 5,5% so với cùng kỳ 2024; doanh thu ước đạt 3.080 tỷ đồng. Hòa Bình đang dần khẳng định vị thế là điểm đến xanh và đậm đà bản sắc văn hóa của khu vực Tây Bắc.

Đưa du lịch bứt phá từ các hoạt động văn hóa, thể thao

Đưa du lịch bứt phá từ các hoạt động văn hóa, thể thao

Sở hữu cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, những nét văn hóa giàu bản sắc cùng hạ tầng đô thị được đầu tư khá hoàn thiện, thị xã Mộc Châu, tỉnh Sơn La hội tụ nhiều thế mạnh để tổ chức các sự kiện văn hóa đặc sắc, nhiều giải thể thao hấp dẫn. Địa phương đã triển khai nhiều hoạt động như: Tuần văn hóa du lịch Mộc Châu vào dịp 2/9, lễ hội Hết chá, lễ hội Cầu mưa, lễ hội Púng Hiéng của người Dao Tiền, ngày hội hái quả… thu hút đông đảo du khách đến tham gia và trải nghiệm.

Tiềm năng du lịch từ vẻ đẹp ruộng bậc thang Miền Đồi

Tiềm năng du lịch từ vẻ đẹp ruộng bậc thang Miền Đồi

Ẩn mình giữa núi rừng Lạc Sơn (Hòa Bình), xã Miền Đồi không chỉ gây ấn tượng bởi vẻ đẹp thiên nhiên nguyên sơ mà còn sở hữu những thửa ruộng bậc thang tầng lớp hùng vĩ, là tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái, cộng đồng. “Viên ngọc thô” ruộng bậc thang Miền Đồi vẫn đang chờ được "mài giũa" để tỏa sáng.

Khi hai miền di sản kết nối: Tỉnh Tuyên Quang mới vươn tầm điểm đến quốc gia

Khi hai miền di sản kết nối: Tỉnh Tuyên Quang mới vươn tầm điểm đến quốc gia

Việc hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang để hình thành tỉnh Tuyên Quang mới là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình đổi mới tổ chức hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đồng thời mở ra không gian phát triển mới cho ngành du lịch - lĩnh vực có vai trò ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế vùng cao.

Nét duyên vùng Tây Bắc

Nét duyên vùng Tây Bắc

Mai Châu là điểm đến hấp dẫn du khách bằng vẻ đẹp nguyên sơ của núi rừng, không khí mát mẻ và mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc. Với chủ trương phát triển du lịch cộng đồng bền vững, các địa phương như Pà Cò, bản Lác đã trở thành điểm sáng, bảo tồn di sản văn hóa, tạo sinh kế cho người dân.

Thanh niên vùng cao khởi nghiệp từ mô hình du lịch homestay

Thanh niên vùng cao khởi nghiệp từ mô hình du lịch homestay

Rời giảng đường đại học, nhiều thanh niên ở xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) trở về quê hương, khởi nghiệp từ mô hình du lịch homestay. Nhiều tấm gương thanh niên tiêu biểu xuất hiện, không chỉ làm giàu cho bản thân, góp phần xóa đói giảm nghèo tại địa phương, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá văn hóa, con người Mù Cang Chải đến với du khách trong và ngoài nước.

Mù Cang Chải mùa nước đổ đẹp như tranh thủy mặc

Mù Cang Chải mùa nước đổ đẹp như tranh thủy mặc

Giữa tháng 5 và tháng 6, khi những cơn mưa mùa Hạ đổ xuống cũng chính là lúc những thửa ruộng bậc thang ở huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) vào mùa đổ nước. Nước được “phủ” đầy trên bề mặt những thửa ruộng bậc thang sau cày ải, tương phản dưới ánh nắng mặt trời cùng những gam màu đa sắc hòa quyện với nhau, từ màu của nước, của đất, màu cây cối, trời mây... đã tạo nên một bức tranh bích họa giữa núi non hùng vỹ.

Du lịch cộng đồng Quảng Ngãi - cơ hội phát triển mới

Du lịch cộng đồng Quảng Ngãi - cơ hội phát triển mới

Quảng Ngãi không chỉ nổi tiếng với những bãi biển hoang sơ, thắng cảnh hùng vĩ như Lý Sơn mà tiềm năng du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp cần được đánh thức và phát triển. Loại hình du lịch này được khai thác hợp lý sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương; đồng thời góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống và thiên nhiên.

Thoát nghèo từ các mô hình du lịch cộng đồng ở Hòa Bình

Thoát nghèo từ các mô hình du lịch cộng đồng ở Hòa Bình

Du lịch cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình đang là một hướng đi chủ đạo, góp phần không nhỏ tạo sinh kế bền vững cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn thoát nghèo, vươn lên làm giàu gắn với xây dựng nông thôn mới.

Phát triển du lịch Ba Vì gắn với dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Phát triển du lịch Ba Vì gắn với dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng đề cao các giá trị sống bền vững, du lịch chăm sóc sức khỏe (wellness tourism) nổi lên như một xu thế tất yếu. Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 60 km, vùng núi Ba Vì nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, nguồn dược liệu phong phú, là khu vực sở hữu nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển loại hình du lịch chăm sóc sức khỏe. Việc kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên, y học cổ truyền và các dịch vụ hiện đại đang mang đến những trải nghiệm nghỉ dưỡng kết hợp chăm sóc sức khỏe hấp dẫn cho du khách đến với Ba Vì.

Khai thác hiệu quả mô hình du lịch - làng nghề ở vùng cao

Khai thác hiệu quả mô hình du lịch - làng nghề ở vùng cao

Các làng nghề truyền thống ở Cao Bằng đã tạo nhiều cơ hội việc làm, giúp tăng thu nhập cho người dân. Để bảo tồn và phát triển làng nghề, tỉnh Cao Bằng đã có những hướng đi bền vững, trong đó có việc kết hợp phát triển làng nghề với du lịch, chuyển đổi số, có sự hỗ trợ, đồng hành từ chính quyền địa phương.

Thái Nguyên: Tiềm năng du lịch tại xã vùng cao Thần Sa

Thái Nguyên: Tiềm năng du lịch tại xã vùng cao Thần Sa

Tại Khu dự trữ thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, xã vùng cao Thần Sa (huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên), các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện một loạt các di chỉ khảo cổ có niên đại từ trung kì đồ đá cũ đến sơ kì thời đại đồ đá mới, trong đó địa điểm quan trọng nhất là Mái đá Ngườm, được xếp hạng quốc gia năm 1982.

Hợp nhất Lào Cai và Yên Bái: Triển vọng tích cực phát triển du lịch xanh

Hợp nhất Lào Cai và Yên Bái: Triển vọng tích cực phát triển du lịch xanh

Việc sáp nhập hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai để hình thành một tỉnh mới là chủ trương lớn, mang tính chiến lược của Trung ương nhằm tạo ra một cực tăng trưởng mới cho vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Đối với lĩnh vực du lịch, đây là một bước ngoặt quan trọng, tạo ra nhiều thời cơ to lớn song đặt ra không ít thách thức cần được nhận diện và giải quyết đồng bộ.

Thúc đẩy kết nối du lịch xanh để phát triển bền vững

Thúc đẩy kết nối du lịch xanh để phát triển bền vững

Trong khuôn khổ Hội chợ Du lịch quốc tế Lào Cai 2025, ngày 6/6, UBND tỉnh Lào Cai tổ chức tọa đàm "Kết nối phát triển du lịch xanh". Các đại biểu thống nhất cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc kết nối du lịch xanh giữa các vùng, các địa phương để phát triển bền vững.