Những ngôi nhà mới khang trang, kiên cố đang thay thế cho những mái nhà tạm, dột nát trước đây của các hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là các hộ nghèo là đồng bào Khmer tại tỉnh Bạc Liêu. Đây cũng chính là kết quả tích cực của phong trào thi đua “Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát” do Thủ tướng Chính phủ phát động, từ đó, giúp người dân từng bước hiện thực giấc mơ “an cư”.

Niềm vui của hộ dân đồng bào dân tộc Khmer ở xã Hưng Hội (huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) trong ngày khánh thành ngôi nhà mới.
Những ngôi nhà mơ ước
Trở lại xã Hưng Hội, một trong những địa phương có tỷ lệ người Khmer chiếm trên 75% dân số của huyện Vĩnh Lợi, không khó nhận thấy sự thay da, đổi thịt nhanh chóng của phum, sóc nơi đây. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư hoàn thiện rộng khắp là minh chứng cụ thể, sinh động của phong trào xây dựng nông thôn mới, nông thôn tiêu biểu của huyện. Càng ấm lòng hơn khi những hộ đồng bào dân tộc Khmer nơi đây còn gặp khó khăn về nhà ở đã kịp thời nhận được sự hỗ trợ của các cấp chính quyền trong chương trình xóa nhà tạm, dột nát
Trong căn nhà còn thơm mùi vữa, bà Sơn Sà Qui, ở ấp Cả Vĩnh, xã Hưng Hội, vẫn chưa hết xúc động về căn nhà mới kiến cố mới được hỗ trợ xây dựng. Cả đời làm lụng vất vả, nhưng cũng chỉ đủ trang trải chi phí sinh hoạt qua ngày. Ở tuổi đã xế chiều thì việc có được số tiền lớn để cất một ngôi nhà kiên cố, khang trang quả là điều ước xa xôi.
Bà Sơn Sà Qui chia sẻ: "Trước đây, nhà tôi xây dựng bằng cây lá tạm bợ, xập xệ, chỉ đủ để che nắng, chứ mỗi khi trời mưa lớn là nhà bị dột khắp nơi. Nhưng làm còn không đủ ăn nên đâu có tiền để sửa chữa, đành ở tạm, tới đâu hay tới đó. Bây giờ, được Nhà nước hỗ trợ cho căn nhà khang trang nên gia đình mừng lắm. Cả đời tôi chưa bao giờ nghĩ là mình có căn nhà tường đẹp như thế để ở. Xin cảm ơn Đảng và Nhà nước đã quan tâm giúp đỡ gia đình!".

Lãnh đạo Bộ Công an, Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bạc Liêu và nhà tài trợ cắt băng khánh thành 2 căn nhà đầu tiên trong tổng số 700 căn nhà do Bộ Công an hỗ trợ các hộ nghèo tại Bạc Liêu.
Còn đối với bà Thạch Thị Phôl (ngụ ấp Vĩnh Mẫu, xã Vĩnh Hậu, huyện Hòa Bình), căn nhà mới sẽ giúp bà cùng gia đình an cư khi bà tuổi đã xế chiều. Cả cuộc đời đi làm thuê, số tiền kiếm được chỉ đủ ăn qua bữa, ở cái tuổi 64, vợ chồng ông bà Phôl còn phải cưu mang 2 cháu nhỏ khi cô con gái thường xuyên đi làm ăn xa. Giờ đây, trong căn nhà mới được xây dựng bằng bê tông kiên cố, lợp mái tôn thay cho căn nhà mục nát, mấy bà cháu không còn sợ mưa dột, gió lùa. Căn nhà mới là “tổ ấm” để mấy bà cháu nương tựa nhau, để con gái của bà Phôl yên tâm đi làm kiếm tiền trang trải cuộc sống.
Bà Thạch Thị Phôl xúc động cho biết: "Có nhà kiên cố rồi thì ấm cái lòng hơn. Không phải lo lắng những lúc nắng mưa thất thường. Có chỗ ở khang trang, vững chãi thì chăm con chăm cháu ở nhà cũng an lòng hơn!".
Hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn

Lãnh đạo Tỉnh ủy Bạc Liêu và các sở, ngành, địa phương cùng nhà tài trợ tham quan, động viên hộ dân ở thị trấn Phước Long (huyện Phước Long) nhận được nhà từ chương trình “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”.
Ông Trần Văn Út, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bạc Liêu cho biết, tỉnh tập trung thực hiện xóa nhà tạm, dột nát cho 3 nhóm đối tượng gồm hộ gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn; hộ nghèo, cận nghèo và hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số. Được Tỉnh ủy, UBND tỉnh giao là cơ quan thường trực, thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc đã tăng cường vận động các nguồn lực, phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, địa phương tích cực triển khai xây dựng nhà ở cho các nhóm đối tượng để kịp tiến độ được giao.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp với các đơn vị liên quan tích cực kêu gọi, vận động doanh nghiệp, tổ chức, tập đoàn kinh tế tích cực tham gia đóng góp, ủng hộ xóa nhà tạm, dột nát nhằm huy động nguồn lực xã hội hóa giúp đỡ hộ nghèo, cận nghèo xây mới và sửa chữa nhà ở.
Để thực hiện hiệu quả phong trào “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát”, Bạc Liêu đã thành lập Ban chỉ đạo 3 cấp; phân bổ chỉ tiêu tới các địa phương cụ thể và kiểm tra, giám sát thường xuyên để có hướng chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời. Tỉnh đã đề nghị các cấp, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị kêu gọi người dân, doanh nghiệp cùng chung sức thực hiện phong trào mang ý nghĩa nhân văn này.
Tính đến cuối tháng 5, tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng và hoàn thành 1.758/2.537 căn nhà. Tỉnh sẽ phấn đấu vận động nguồn lực xây dựng 779 căn còn lại, hoàn thành trước ngày 1/7/2025.

Lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu và đại diện Bộ Công an thực hiện nghi thức khánh thành và cất nóc triển khai xây dựng nhà cho hộ dân.
Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Phạm Văn Thiều cho biết, thời gian qua, hưởng ứng phong trào, tỉnh đã xây dựng kế hoạch, thành lập Ban Chỉ đạo; đồng thời, thành lập các đoàn công tác vận động nguồn lực, với quyết tâm phấn đấu hoàn thành việc xóa nhà tạm, dột nát trên địa bàn trong năm 2025.
Qua rà soát nhu cầu xây dựng nhà ở cho đối tượng, Bạc Liêu có 2.537 căn nhà cần được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa với tổng kinh phí trên 146 tỷ đồng. Số tiền phải đầu tư là quá lớn, trong khi Bạc Liêu còn là một tỉnh nghèo, quy mô nền kinh tế nhỏ, thu ngân sách không đủ chi. Bên cạnh đó, trên địa bàn không có những tập đoàn kinh tế lớn nên việc vận động nguồn lực xã hội để hỗ trợ cho người dân xóa nhà tạm, dột nát còn rất hạn chế.Trong điều kiện ấy, Bạc Liêu đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, địa phương, doanh nghiệp, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh hỗ trợ kinh phí thực hiện chương trình xóa nhà tạm, dột nát.
Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Phạm Văn Thiều cho rằng, việc triển khai chương trình xóa nhà tạm, dột nát từ nguồn vận động hỗ trợ của các cấp, ngành, nhất là vai trò của thành viên Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, dột nát các cấp, cùng với chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội theo chủ trương của Đảng, Nhà nước mà còn củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền.
Chương trình xóa nhà tạm, dột nát không chỉ mang lại những mái ấm kiên cố mà còn thắp lên niềm tin, hy vọng về tương lai tươi sáng của những gia cảnh và mảnh đời còn gặp nhiều cơ cực, khó khăn trong cuộc sống; đồng thời, qua đó cũng một lần nữa khẳng định tinh thần "không ai bị bỏ lại phía sau" của tỉnh Bạc Liêu trong việc mang lại mái ấm cho người nghèo, để họ an cư và hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
