Những năm qua, người có uy tín ở Kiên Giang đã phát huy vai trò trong tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc ở các xóm, ấp, khu phố tích cực chăm lo phát triển kinh tế, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Tỉnh Kiên Giang có 12/15 huyện, thành phố có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, với gần 70.000 hộ, hơn 260.000 nhân khẩu, chiếm 14,9 % dân số của tỉnh. Toàn tỉnh hiện có 285 người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những năm qua, người có uy tín đã phát huy vai trò trong tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc ở các xóm, ấp, khu phố tích cực chăm lo phát triển kinh tế, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện có hiệu quả các phong trào ở địa phương.
Sâu sát với nhân dân địa phương

Gia đình ông Danh Bạch ở xã Thủy Liễu (Gò Quao, Kiên Giang) chia sẻ câu chuyện phát triển kinh tế với lãnh đạo UBND xã Thủy Liễu.
Là người có uy tín trong đồng bào Khmer được nhân dân bầu làm Trưởng ấp, kiêm Bí thư Chi bộ ấp Thạnh Hòa 3, xã Thủy Liễu, huyện Gò Quao nhiều năm liền, ông Danh Bạch rất phấn khởi khi chứng kiến sự đổi thay, phát triển trong đời sống sinh hoạt, kinh tế của các hộ dân trong ấp Thạnh Hòa 3 nói riêng, toàn xã nói chung.
Ông Bạch cho biết, ấp Thạnh Hòa 3 có gần 500 hộ dân, trong đó có hơn 250 hộ Khmer. Trước năm 2010, ấp có hơn 60 hộ nghèo, cận nghèo và khoảng 60% hộ còn ở nhà cây lợp lá, tôn. Đến nay, toàn ấp chỉ còn 4 hộ cận nghèo, không có hộ nghèo, hơn 70% hộ dân ở nhà khang trang, kiên cố.
Có được kết quả trên, bên cạnh những chủ trương, chính sách đúng đắn trong phát triển kinh tế, xã hội, đầu tư hạ tầng giao thông, cơ sở vật chất như điện, đường, trường, trạm y tế… còn có sự đoàn kết, siêng năng, nhạy bén, đồng lòng của cộng đồng dân cư trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Điển hình là trong thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, nhân dân trong ấp đã hiến hơn 4.000 m2 đất, đóng góp hàng trăm ngày công để làm cầu, đường giao thông, trụ sở ấp; tích cực trồng cây xanh, hoa kiểng, làm hàng rào, gìn giữ an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương…

Đường giao thông nông thôn tại xã Thủy Liễu (Gò Quao, Kiên Giang).
Ông Bạch cũng cho biết, trước đây vẫn còn một số hộ dân thiếu hiểu biết, không đồng ý mở rộng đường giao thông, đòi bồi thường hỗ trợ; hoặc một số hộ nghèo có tâm lý trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không chí thú làm ăn… Trước tình hình trên, ông Bạch thường xuyên đến nhà tuyên truyền, vận động, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân để báo cáo, phối hợp cùng các hội, đoàn thể, chính quyền địa phương có sự quan tâm, giúp đỡ phù hợp, giúp họ thay đổi ý thức, hành động.
Ông trao đổi được tiếng Khmer với các hộ dân nên cũng dễ tiếp cận các vấn đề để giải quyết. Ông cũng được tham gia các hội thảo, hội nghị, tập huấn nên có thêm kiến thức, nắm được tình hình làm cơ sở để thông tin, tuyên truyền, vận động có hiệu quả trong đồng bào Khmer ở địa phương. Ông thường đến các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hộ có thanh niên chưa có việc làm, hoặc những người hay gây ảnh hưởng đến làng xóm để khuyên răn, định hướng tìm việc làm, giúp họ ổn định cuộc sống; vận động các nguồn hỗ trợ để giúp hộ khó khăn vượt qua hoàn cảnh.

Nông dân Khmer sản xuất kinh doanh giỏi Danh Bạch tại xã Thủy Liễu (Gò Quao, Kiên Giang) nuôi lươn không bùn cho thu nhập hơn 300 triệu đồng/năm.
Bà Trương Thị Bạch Tuyết, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Thủy Liễu, huyện Gò Quao cho biết, đồng bào Khmer tại xã chiếm gần 50% dân số, với hơn 1.200 hộ dân. Những năm qua, xã thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm nghèo vùng đồng bào Khmer từ hơn 10% (năm 2015) xuống còn dưới 1,8% (đầu năm 2025). Đến nay, xã có 13/19 tiêu chí đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao, phấn đấu đến cuối năm 2025 hoàn thành 19/19 tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao.
“Xã Thủy Liễu có đông đồng bào Khmer, nhưng nhiều năm qua, tình hình trật tự an toàn xã hội luôn ổn định, cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa đoàn kết tương trợ nhau trong phát triển kinh tế, xã hội. Có được những kết quả tốt đẹp trên không thể không kể đến vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Họ chính là cánh tay nối dài của chính quyền địa phương trong triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật đến từng hộ dân”, bà Tuyết chia sẻ.
Phát huy vai trò người có uy tín

Phật tử đến chùa Khmer Cà Nhung, xã Định An (Gò Quao, Kiên Giang) dịp Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây 2025.
Ông Danh Hùng ở xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành, là người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào Khmer ở xã trong thực hiện tốt phong trào vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự vùng biên giới thuộc địa bàn quản lý của Đồn Biên phòng Phú Mỹ. Trước khi nghỉ hưu, ông Hùng là Bí thư Đảng ủy xã Phú Mỹ nên nắm được tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cũng như đời sống của người dân nói chung, đồng bào Khmer nói riêng. Đây là điều kiện thuận lợi giúp ông phát huy tốt vai trò của người có uy tín trong gần 10 năm qua.
Sau nghỉ hưu, ông Danh Hùng là thành viên Ban Quản trị chùa Giồng Kè, nơi có khoảng 200 người theo đạo Phật sinh hoạt thường xuyên. Trong các dịp lễ, Tết của đồng bào Khmer, người theo đạo Phật các nơi đến chùa nhiều hơn. Nhân các dịp sinh hoạt, gặp gỡ, ông cùng trụ trì chùa thường xuyên nhắc nhở người dân không tham gia tệ nạn xã hội, không tham gia hoặc tiếp tay các đối tượng buôn lậu, đặc biệt là cảnh giác với các thế lực xuyên tạc Đảng, Nhà nước, gây mất đoàn kết dân tộc và nêu cao tinh thần gìn giữ an ninh biên giới. Ngoài ra, khi xảy ra những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, ông cùng với các ngành liên quan tổ chức gặp gỡ người dân để lắng nghe, giải thích, giải quyết kịp thời có lý, có tình, đúng chính sách pháp luật để người dân tin tưởng vào Đảng, Nhà nước hơn.
Ông Trần Ên, ấp Giồng Kè, xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành cho biết, gia đình ông ở khu vực giáp biên giới Campuchia nên thường gặp gỡ, trò chuyện với người dân nước bạn. Nhờ được ông Danh Hùng và trụ chì chùa Giồng Kè tuyên truyền, nhắc nhở nên gia đình ông luôn cư xử hòa đồng, tôn trọng mọi người. Cùng với đó, ông Ên luôn chú ý quan sát đường biên, cột mốc; sẵn sàng tố giác khi phát hiện các hành vi buôn lậu, cảnh giác với các đối tượng muốn kích động, xúi giục chống phá Đảng, Nhà nước để cùng chung tay góp sức bảo vệ an ninh biên giới quốc gia.

Dàn nhạc Ngũ âm tại chùa Khmer Hòn Đất phục vụ đời sống tinh thần đồng bào Khmer địa phương.
Theo Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, toàn tỉnh có 49 xã được phân định khu vực thuộc vùng dân tộc thiểu số, trong đó có 15 ấp đặc biệt khó khăn. Tỉnh có 27 dân tộc thiểu số sinh sống, phần lớn là dân tộc Khmer và Hoa.
Giai đoạn 2023 - 2027, tỉnh bình chọn 285 người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện, thành phố. Người có uy tín là các trưởng dòng họ, tộc trưởng, trưởng ấp, sư sãi, chức sắc tôn giáo, thầy thuốc, thầy cúng, cán bộ nghỉ hưu, người sản xuất kinh doanh giỏi…
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kiên Giang Danh Phúc cho biết, để phát huy tốt vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tỉnh thường xuyên tổ chức hội nghị cung cấp thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tặng quà Tết, lễ quan trọng của đồng bào. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể tổ chức đoàn thăm hỏi, tặng quà, hỗ trợ vật chất cho 100% người có uy tín của tỉnh; cấp phát đầy đủ, kịp thời các báo, tạp chí cho người có uy tín để làm cẩm nang thông tin tuyên truyền đến người dân.
“Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan tiếp tục thực hiện tốt các chính sách đối với người có uy tín; kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số để họ có thêm động lực tích cực cống hiến”, ông Danh Phúc nhấn mạnh./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
