Ngày 14/5, UBND tỉnh Sóc Trăng tổ chức buổi họp mặt thông tin tình hình kinh tế - xã hội và sắp xếp đơn vị hành chính của tỉnh từ đầu năm 2025 đến nay cho trên 250 vị sư sãi, chức sắc, Ban quản trị các chùa Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn.

Tại buổi họp mặt, ông Lý Rôtha, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Sóc Trăng thông tin, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2024 và quý I/2025 tiếp tục có nhiều khởi sắc, đạt mức tăng trưởng trên 7%. Địa bàn vùng đồng bào Khmer, vùng dân tộc thiểu số tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư mạnh mẽ. Các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc giảm mạnh.
Đặc biệt, Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát của tỉnh Sóc Trăng đang được các cấp, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện. Đến nay, toàn tỉnh đã hoàn thành trên 85% số nhà bàn giao cho hộ nghèo trong tổng số hơn 8.650 căn nhà tạm, nhà dột nát phải xóa theo kế hoạch.
Đối với việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, đến nay, Sóc trăng đã cơ bản hoàn thành. Theo đó, bộ máy cấp xã, phường được sắp xếp từ 108 xã, phường thị trấn, giảm còn 43 xã, phường (trong đó có 8 phường và 35 xã) sẽ sớm hoàn thành đi vào hoạt động từ tháng 7/2025 theo chỉ đạo của Trung ương.
Ngoài ra, các đại biểu còn được thông tin, thảo luận, chia sẻ các ý kiến về nhiều lĩnh vực như: tình hình sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của các chùa Phật giáo Nam tông Khmer; sự đồng hành của sư sãi và Ban quản trị chùa trong thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc và các phong trào thi đua ở địa phương; gắn kết sinh hoạt tâm linh phật giáo Nam tông Khmer với phát triển du lịch và bảo vệ môi trường...

Các đại biểu tham dự tại buổi thông tin.
Phát biểu tại buổi họp mặt, ông Nguyễn Văn Khởi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng biểu dương những hoạt động chung tay vì cộng đồng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc của đồng bào Khmer, trong đó có sự dẫn dắt, tuyên truyền của các sư sãi, Ban quản trị các chùa Khmer trên địa bàn.
Theo lãnh đạo UBND tỉnh Sóc Trăng, những kết quả đáng khích lệ mà Sóc Trăng đạt được thời gian qua, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh còn có sự đóng góp quan trọng của các vị trụ trì, sư sãi và Ban quản trị các chùa Phật giáo Nam tông Khmer, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để tiếp tục triển khai thực hiện tốt hơn nữa công tác dân tộc và tôn giáo, thời gian tới, lãnh đạo UBND tỉnh Sóc Trăng mong muốn, các hòa thượng, thượng tọa, đại đức, Ban quản trị các chùa Phật giáo Nam tông Khmer tiếp tục cùng với cấp ủy và chính quyền, chung tay thực hiện tốt việc quán triệt hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc.
Đặc biệt, các vị chức sắc tôn giáo tích cực phối hợp với cấp ủy, chính quyền các cấp để tuyên truyền, vận động đồng bào và phật tử hiểu rõ, đầy đủ về chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, để có sự đồng thuận cao trong nhân dân.../.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
