Lâm Đồng là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 683.000 người, chiếm 17,6% dân số. Với mong muốn giúp các em nhỏ vùng cao tự tin hơn khi đến trường, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức, những năm qua, ngành Giáo dục Lâm Đồng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”, mang lại những chuyển biến tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền.

Linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt
Tại Trường Tiểu học Hàm Cần 2 (xã Hàm Thạnh), tiếng cười nói rộn rã của học sinh Raglai vang khắp sân trường. Đây là một trong những đơn vị thực hiện hiệu quả đề án. Năm học 2025 - 2026, trường có 204 học sinh, trong đó 80% là người dân tộc Raglai. Do đặc thù của địa phương, mỗi dịp hè, nhà trường chủ động mở lớp dạy phụ đạo 3 tuần (18 tiết/tuần) cho học sinh dân tộc thiểu số chuẩn bị vào lớp 1, giúp các em làm quen với Tiếng Việt trước khi bước vào năm học mới.
Cô Dương Thị Thắng, giáo viên lớp 1A1 Trường Tiểu học Hàm Cần 2 chia sẻ: “Nhiều em khi đến trường vẫn quen nói tiếng mẹ đẻ nên gặp khó khăn trong giao tiếp và học tập. Vì vậy, giáo viên luôn chú trọng rèn luyện, giúp các em hình thành bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kỹ năng giao tiếp; khuyến khích các em diễn đạt tròn câu, mạnh dạn bày tỏ ý kiến bằng Tiếng Việt".
Trước đây, vào chương trình chính khóa, trường tổ chức dạy tăng cường Tiếng Việt 2 tiết/tuần cho học sinh, chủ yếu là nâng cao khả năng nghe, nói cho các em. Tuy nhiên năm học này, do một số nguyên nhân khách quan, nhà trường chưa thể tổ chức dạy thành tiết riêng. Thay vào đó, trường vẫn linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt trong các tiết học chính khóa, giúp học sinh vừa học ngôn ngữ vừa tiếp thu kiến thức các môn khác.
Cùng với đó, trường xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động thư viện; tổ chức linh hoạt các hoạt động trải nghiệm, trò chơi học tập, giao lưu Tiếng Việt; tuyên truyền nâng cao nhận thức cho giáo viên, cha mẹ học sinh và cộng đồng về việc tăng cường Tiếng Việt… Nhờ đó, các em ngày càng tự tin giao tiếp, hiểu bài tốt hơn, tạo nền tảng cho việc học ở các cấp tiếp theo.
Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hàm Cần 2 Lê Kim Long cho biết, sau gần 10 năm triển khai đề án, nhận thức của phụ huynh và cộng đồng về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số đã thay đổi rõ rệt, 100% học sinh dân tộc thiểu số trong trường đã được tăng cường Tiếng Việt. Hầu hết, các em đều có khả năng nắm bắt ngôn ngữ, thường xuyên giao tiếp bằng Tiếng Việt, mạnh dạn, tự tin, có kiến thức cơ bản khi vào lớp 1. Từ lớp 2 đến lớp 5, năng lực sử dụng Tiếng Việt của các em tiến bộ rõ rệt. Đa số các em có khả năng nói, nghe hiểu để giao tiếp trong sinh hoạt và đáp ứng yêu cầu học tập.

Tương tự, Trường Tiểu học Lâm Giang, xã Hàm Thuận Bắc đang là điểm sáng trong việc triển khai dạy Tiếng Việt cho học sinh người Chăm. Những giờ học Tiếng Việt ở đây không khô khan, mà tràn đầy tiếng hát, tiếng cười. Các em vừa học vừa chơi, qua tranh ảnh, trò chơi, bài hát quen thuộc, từng bước tích lũy vốn từ và kỹ năng ngôn ngữ. Nhiều học sinh trước kia rụt rè, nay đã mạnh dạn đứng lên phát biểu, tự tin đọc thơ, kể chuyện trước lớp.
Em Xích Ngọc Như Lê, học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Lâm Giang chia sẻ: “Ban đầu, em thấy học Tiếng Việt rất khó vì phát âm và từ ngữ khác với tiếng dân tộc của em. Nhờ thầy cô kiên nhẫn dạy dỗ, em dần hiểu và nói tốt hơn. Bây giờ, em có thể đọc nhiều sách, truyện hay và tự tin trò chuyện với bạn bè. Em rất vui vì Tiếng Việt giúp em hòa nhập và hiểu thêm nhiều điều mới”.
Năm học 2025 - 2026, Trường Tiểu học Lâm Giang có 284 học sinh, trong đó 99% là con em đồng bào Chăm. Đặc biệt, trường có 4 giáo viên người bản địa, am hiểu ngôn ngữ, văn hóa địa phương và có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy ở các vùng dân tộc thiểu số. Điều này tạo sự thuận lợi trong việc truyền đạt từ ngữ, đọc hiểu cho các em. Ngoài ra, các lớp trong trường còn thiết kế môi trường Tiếng Việt mở, thân thiện, có bảng góc chữ cái, góc “Em học Tiếng Việt”, “Kiến thức tiếng Việt”… giúp các em tương tác, thực hành và phát triển kỹ năng ngôn ngữ một cách tự nhiên.
Ông Trần Văn Tiếng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lâm Giang cho biết, trường tăng cường dạy Tiếng Việt trong tất cả môn học từ Toán, Âm nhạc đến Thể dục để học sinh thường xuyên tiếp xúc và vận dụng trong nhiều tình huống khác nhau. Đồng thời, nhà trường lồng ghép các yếu tố văn hóa địa phương vào bài giảng để tạo sự hứng thú, giúp các em tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, khuyến khích sự chủ động giao tiếp của học sinh.
Nâng cao chất lượng học tập
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, song, việc dạy tăng cường Tiếng Việt vẫn còn khó khăn. Nhiều trường thiếu cơ sở vật chất, phòng chức năng phục vụ dạy học; nguồn lực xã hội hóa hạn chế, kinh phí tổ chức hoạt động còn ít. Ngoài ra, nhận thức chưa đầy đủ của một số phụ huynh cũng khiến trẻ gặp trở ngại khi bắt đầu học Tiếng Việt.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhờ sự quan tâm của các cấp, ngành và nỗ lực của đội ngũ giáo viên, khả năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt của học sinh được cải thiện rõ rệt; góp phần nâng cao chất lượng học tập và tạo tiền đề thuận lợi cho các bậc học tiếp theo.
Những nỗ lực bền bỉ của ngành Giáo dục Lâm Đồng trong việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc thiểu số đã và đang tạo nên những thay đổi rõ rệt, không chỉ ở kỹ năng ngôn ngữ mà còn ở sự tự tin, khát vọng vươn lên của mỗi em nhỏ. Từ những lớp học vùng sâu, vùng xa, Tiếng Việt đã trở thành cầu nối tri thức, mở ra cơ hội học tập và tương lai tươi sáng hơn cho trẻ em dân tộc thiểu số; góp phần xây dựng một nền giáo dục toàn diện, bình đẳng và giàu bản sắc trên quê hương Lâm Đồng./.
Nhóm địa phương: Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...
Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác.
Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.
Hoạt động sản xuất: Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước.
Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Ra Glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.
Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Nam nữ, người già, người trẻ Ra Glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.
Ðàn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra Glai, các bộ phận của đàn được làm bằng các chất liệu khác nhau: nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi tay phải giữ bệ đàn, thân đàn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gầy vào đầu nốt nhạc.
Ăn: Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Ðồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.
Mặc: Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ trắng xen kẽ nhau.
Ở: Người Ra Glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500-1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Ðồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.
Phương tiện vận chuyển: Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra Glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.
Quan hệ xã hội: Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết "Hội đồng già làng" hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng... Tầng lớp thày cúng cũng đã hình thành. Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra Glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế gia đình mẫu hệ.
Cưới xin: Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra Glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình: nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.
Sinh đẻ: Trước và sau khi sinh nở, phụ nữ Ra Glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Một số nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.
Ma chay: Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.
Thờ cúng: Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.
Lễ tết: Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Ðây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.
Văn nghệ: Ðó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Ðó cúng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra Glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.
Theo cema.gov.vn
