Tăng cường dạy Tiếng Việt, giúp học sinh vùng dân tộc thiểu số tự tin giao tiếp

Lâm Đồng là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 683.000 người, chiếm 17,6% dân số. Với mong muốn giúp các em nhỏ vùng cao tự tin hơn khi đến trường, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức, những năm qua, ngành Giáo dục Lâm Đồng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”, mang lại những chuyển biến tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền.

lam-dong-1710.jpg
Môn tiếng Việt được tăng cường lồng ghép trong nhiều môn học khác tại Trường Tiểu học Hàm Cần 2, xã Hàm Thạnh.

Linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt

Tại Trường Tiểu học Hàm Cần 2 (xã Hàm Thạnh), tiếng cười nói rộn rã của học sinh Raglai vang khắp sân trường. Đây là một trong những đơn vị thực hiện hiệu quả đề án. Năm học 2025 - 2026, trường có 204 học sinh, trong đó 80% là người dân tộc Raglai. Do đặc thù của địa phương, mỗi dịp hè, nhà trường chủ động mở lớp dạy phụ đạo 3 tuần (18 tiết/tuần) cho học sinh dân tộc thiểu số chuẩn bị vào lớp 1, giúp các em làm quen với Tiếng Việt trước khi bước vào năm học mới.

Cô Dương Thị Thắng, giáo viên lớp 1A1 Trường Tiểu học Hàm Cần 2 chia sẻ: “Nhiều em khi đến trường vẫn quen nói tiếng mẹ đẻ nên gặp khó khăn trong giao tiếp và học tập. Vì vậy, giáo viên luôn chú trọng rèn luyện, giúp các em hình thành bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kỹ năng giao tiếp; khuyến khích các em diễn đạt tròn câu, mạnh dạn bày tỏ ý kiến bằng Tiếng Việt".

Trước đây, vào chương trình chính khóa, trường tổ chức dạy tăng cường Tiếng Việt 2 tiết/tuần cho học sinh, chủ yếu là nâng cao khả năng nghe, nói cho các em. Tuy nhiên năm học này, do một số nguyên nhân khách quan, nhà trường chưa thể tổ chức dạy thành tiết riêng. Thay vào đó, trường vẫn linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt trong các tiết học chính khóa, giúp học sinh vừa học ngôn ngữ vừa tiếp thu kiến thức các môn khác.

Cùng với đó, trường xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động thư viện; tổ chức linh hoạt các hoạt động trải nghiệm, trò chơi học tập, giao lưu Tiếng Việt; tuyên truyền nâng cao nhận thức cho giáo viên, cha mẹ học sinh và cộng đồng về việc tăng cường Tiếng Việt… Nhờ đó, các em ngày càng tự tin giao tiếp, hiểu bài tốt hơn, tạo nền tảng cho việc học ở các cấp tiếp theo.

Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hàm Cần 2 Lê Kim Long cho biết, sau gần 10 năm triển khai đề án, nhận thức của phụ huynh và cộng đồng về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số đã thay đổi rõ rệt, 100% học sinh dân tộc thiểu số trong trường đã được tăng cường Tiếng Việt. Hầu hết, các em đều có khả năng nắm bắt ngôn ngữ, thường xuyên giao tiếp bằng Tiếng Việt, mạnh dạn, tự tin, có kiến thức cơ bản khi vào lớp 1. Từ lớp 2 đến lớp 5, năng lực sử dụng Tiếng Việt của các em tiến bộ rõ rệt. Đa số các em có khả năng nói, nghe hiểu để giao tiếp trong sinh hoạt và đáp ứng yêu cầu học tập.

lam-dong2-1710.jpg
Giáo viên Trường Tiểu học Lâm Giang, xã Hàm Thuận Bắc sử dụng tranh ảnh để dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh đồng bào dân tộc Chăm.

Tương tự, Trường Tiểu học Lâm Giang, xã Hàm Thuận Bắc đang là điểm sáng trong việc triển khai dạy Tiếng Việt cho học sinh người Chăm. Những giờ học Tiếng Việt ở đây không khô khan, mà tràn đầy tiếng hát, tiếng cười. Các em vừa học vừa chơi, qua tranh ảnh, trò chơi, bài hát quen thuộc, từng bước tích lũy vốn từ và kỹ năng ngôn ngữ. Nhiều học sinh trước kia rụt rè, nay đã mạnh dạn đứng lên phát biểu, tự tin đọc thơ, kể chuyện trước lớp.

Em Xích Ngọc Như Lê, học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Lâm Giang chia sẻ: “Ban đầu, em thấy học Tiếng Việt rất khó vì phát âm và từ ngữ khác với tiếng dân tộc của em. Nhờ thầy cô kiên nhẫn dạy dỗ, em dần hiểu và nói tốt hơn. Bây giờ, em có thể đọc nhiều sách, truyện hay và tự tin trò chuyện với bạn bè. Em rất vui vì Tiếng Việt giúp em hòa nhập và hiểu thêm nhiều điều mới”.

Năm học 2025 - 2026, Trường Tiểu học Lâm Giang có 284 học sinh, trong đó 99% là con em đồng bào Chăm. Đặc biệt, trường có 4 giáo viên người bản địa, am hiểu ngôn ngữ, văn hóa địa phương và có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy ở các vùng dân tộc thiểu số. Điều này tạo sự thuận lợi trong việc truyền đạt từ ngữ, đọc hiểu cho các em. Ngoài ra, các lớp trong trường còn thiết kế môi trường Tiếng Việt mở, thân thiện, có bảng góc chữ cái, góc “Em học Tiếng Việt”, “Kiến thức tiếng Việt”… giúp các em tương tác, thực hành và phát triển kỹ năng ngôn ngữ một cách tự nhiên.

Ông Trần Văn Tiếng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lâm Giang cho biết, trường tăng cường dạy Tiếng Việt trong tất cả môn học từ Toán, Âm nhạc đến Thể dục để học sinh thường xuyên tiếp xúc và vận dụng trong nhiều tình huống khác nhau. Đồng thời, nhà trường lồng ghép các yếu tố văn hóa địa phương vào bài giảng để tạo sự hứng thú, giúp các em tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, khuyến khích sự chủ động giao tiếp của học sinh.

Nâng cao chất lượng học tập

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, song, việc dạy tăng cường Tiếng Việt vẫn còn khó khăn. Nhiều trường thiếu cơ sở vật chất, phòng chức năng phục vụ dạy học; nguồn lực xã hội hóa hạn chế, kinh phí tổ chức hoạt động còn ít. Ngoài ra, nhận thức chưa đầy đủ của một số phụ huynh cũng khiến trẻ gặp trở ngại khi bắt đầu học Tiếng Việt.

lam-dong3-1710.jpg
Các em học sinh dân tộc Raglai ở Trường Tiểu học Hàm Cần 2, xã Hàm Thạnh được rèn luyện kỹ năng đọc, hiểu, viết tiếng Việt.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhờ sự quan tâm của các cấp, ngành và nỗ lực của đội ngũ giáo viên, khả năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt của học sinh được cải thiện rõ rệt; góp phần nâng cao chất lượng học tập và tạo tiền đề thuận lợi cho các bậc học tiếp theo.

Những nỗ lực bền bỉ của ngành Giáo dục Lâm Đồng trong việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc thiểu số đã và đang tạo nên những thay đổi rõ rệt, không chỉ ở kỹ năng ngôn ngữ mà còn ở sự tự tin, khát vọng vươn lên của mỗi em nhỏ. Từ những lớp học vùng sâu, vùng xa, Tiếng Việt đã trở thành cầu nối tri thức, mở ra cơ hội học tập và tương lai tươi sáng hơn cho trẻ em dân tộc thiểu số; góp phần xây dựng một nền giáo dục toàn diện, bình đẳng và giàu bản sắc trên quê hương Lâm Đồng./.

Dân tộc Ra Glai

Nhóm địa phương: Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...

Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác.

Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.

Hoạt động sản xuất: Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước.

Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Ra Glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.

Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Nam nữ, người già, người trẻ Ra Glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.

Ðàn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra Glai, các bộ phận của đàn được làm bằng các chất liệu khác nhau: nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi tay phải giữ bệ đàn, thân đàn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gầy vào đầu nốt nhạc.

Ăn: Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Ðồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.

Mặc: Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ trắng xen kẽ nhau.

: Người Ra Glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500-1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Ðồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.

Phương tiện vận chuyển: Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra Glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết "Hội đồng già làng" hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng... Tầng lớp thày cúng cũng đã hình thành. Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra Glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra Glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình: nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.

Sinh đẻ: Trước và sau khi sinh nở, phụ nữ Ra Glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Một số nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.

Ma chay: Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.

Thờ cúng: Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.

Lễ tết: Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Ðây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.

Văn nghệ: Ðó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Ðó cúng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra Glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ra Glai

Có thể bạn quan tâm

Phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng và dệt thổ cẩm của người Ba Na

Phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng và dệt thổ cẩm của người Ba Na

Tại thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk), loại hình nghệ thuật đặc sắc “Trống đôi, cồng ba, chiêng năm” của người Ba Na - Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia được ghi danh từ năm 2016 cùng với nghề dệt thổ cẩm truyền thống đã tạo nên bản sắc độc đáo của cộng đồng nơi đây. Việc triển khai Dự án Dịch vụ du lịch cộng đồng thôn Xí Thoại không chỉ góp phần phát huy các nét văn hóa đặc trưng mà còn mở ra sinh kế bền vững, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

OCOP Tuyên Quang: Từ sản vật bản địa đến thương hiệu vùng miền

OCOP Tuyên Quang: Từ sản vật bản địa đến thương hiệu vùng miền

Miền đất Tuyên Quang sau hợp nhất hiện lên như một dải lụa xanh thẳm, nơi non cao trùng điệp ôm lấy những thung lũng êm đềm, nơi triền đá tai mèo, nếp nhà trình tường, những tầng ruộng bậc thang mùa nối mùa tạo nên vẻ đẹp vừa hoang sơ, vừa phồn thực. Khí hậu phân tầng theo độ cao, nguồn nước tinh khiết chảy ra từ dãy Tây Côn Lĩnh đã nuôi dưỡng những loại cây trồng, loài hoa chỉ sinh trưởng được trên miền đá này.

Già làng, trưởng thôn là điểm tựa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên

Già làng, trưởng thôn là điểm tựa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên

Ngày 2/12, tại xã Phú Nghĩa (Đồng Nai), Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 778 (Quân Khu 7) tổ chức buổi gặp mặt già làng, trưởng thôn, người có uy tín tiêu biểu trên địa bàn đứng chân nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 7 (10/12/1945 - 10/12/2025) và 81 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2025).

Di tích Gò Thành - Bảo vật sống của nền văn hóa Óc Eo

Di tích Gò Thành - Bảo vật sống của nền văn hóa Óc Eo

Tọa lạc tại ấp Tân Thành, xã Chợ Gạo, tỉnh Đồng Tháp (trước đây là xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), di chỉ khảo cổ Gò Thành đã được khai quật là di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo, nền văn minh cổ từng phát triển rực rỡ tại khu vực Nam Bộ từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII.

Người dân vùng chăn nuôi gia súc gượng dậy nơi cơn lũ đi qua

Người dân vùng chăn nuôi gia súc gượng dậy nơi cơn lũ đi qua

Những đợt lũ liên tiếp đã khiến các vùng chăn nuôi dê, cừu ở Khánh Hòa và vùng nuôi bò thịt ven sông Ngân Sơn (Đắk Lắk) thiệt hại nặng. Nước đã rút nhưng chuồng trại hư hỏng, đàn gia súc mất trắng khiến nhiều hộ rơi vào cảnh trắng tay, đang gượng dậy khôi phục sản xuất trong khó khăn.

Đưa hàng Việt tới người tiêu dùng vùng biên giới An Giang

Đưa hàng Việt tới người tiêu dùng vùng biên giới An Giang

Ở vùng biên giới Tây Nam, nơi hàng ngoại chỉ cần "qua một con nước" đã có thể tràn vào các chợ nội địa, nên việc giữ vững chỗ đứng cho hàng Việt chưa bao giờ là dễ. Giữa dòng chảy ấy, ông Tạ Minh Sơn, Giám đốc Siêu thị Tứ Sơn (phường Châu Đốc, An Giang) vẫn kiên định với hơn 20 năm dành trọn tâm huyết đưa hàng Việt, đặc sản vùng miền và sản phẩm OCOP đến gần người tiêu dùng vùng biên, vùng sâu, vùng xa.

Cao Bằng quy hoạch lại vùng sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu

Cao Bằng quy hoạch lại vùng sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu

Trước tình hình biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cao Bằng đã xác định chiến lược nâng cao khả năng chống chịu của ngành nông nghiệp dựa trên Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Lào Cai: Khởi công xây dựng 6 điểm trường tại các xã biên giới

Ngày 29/11, tại điểm trường Mầm non Xà Khái Tủng, Trường Mầm non Tả Ngải Chồ, xã Pha Long, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai phối hợp với UBND các xã Pha Long, Trịnh Tường, Y Tý tổ chức Lễ khởi công xây dựng 6 điểm trường trên địa bàn 3 xã biên giới Pha Long, Trịnh Tường và Y Tý.

Thanh Hóa xử lý sạt lở chuẩn bị cho mùa du lịch cao điểm cuối năm

Thanh Hóa xử lý sạt lở chuẩn bị cho mùa du lịch cao điểm cuối năm

Ngày 28/11, ông Hà Văn Tung, Trưởng phòng Kinh tế UBND xã Pù Luông (tỉnh Thanh Hóa) cho biết, nhằm đảm bảo an toàn giao thông và phục vụ hoạt động du lịch mùa cao điểm cuối năm một cách tốt nhất, UBND xã Pù Luông đã huy động các lực lượng tại chỗ phối hợp với Hạt Giao thông đường bộ khắc phục các điểm sạt lở do ảnh hưởng của mưa bão số 10.

Những gia đình 'không về nhà' sau mưa lũ lịch sử

Những gia đình 'không về nhà' sau mưa lũ lịch sử

Khu vực phía Đông tỉnh Đắk Lắk vừa trải qua trận mưa lũ lịch sử với những thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Nước lũ rút đi, bà con ai nấy đều “nôn nóng” trở về nhà để kiểm tra tài sản, dọn dẹp nhà cửa, ổn định cuộc sống. Thế nhưng, có nhiều gia đình không thể trở về ngôi nhà của mình khi mưa lũ đã “xóa sổ” mái ấm mà hàng chục năm tích góp có được. Hơn lúc nào hết, những gia đình mất nơi an cư cần sự trợ giúp của Nhà nước, mạnh thường quân… để nhanh chóng “gượng dậy” sau mưa lũ kinh hoàng.

Đắk Lắk nỗ lực cấp điện, nước và xử lý lượng rác thải sau mưa lũ

Đắk Lắk nỗ lực cấp điện, nước và xử lý lượng rác thải sau mưa lũ

Sau mưa lũ lịch sử vừa qua tại tỉnh Đắk Lắk, các đơn vị điện lực, môi trường, nước sạch đã huy động hàng nghìn công nhân nỗ lực khôi phục hệ thống điện, cung cấp nước sạch cũng như xử lý lượng rác thải khổng lồ trôi dạt trên các tuyến đường thuộc các xã, phường bị ảnh hưởng. Qua đó, từng bước giúp ổn định cuộc sống người dân, khôi phục sản xuất.

Thiết thực chăm lo cho người dân vùng sâu, vùng xa

Thiết thực chăm lo cho người dân vùng sâu, vùng xa

Thời gian qua, các cấp, ngành tỉnh An Giang triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách; tích cực vận động tăng thêm nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, chăm lo nhà ở, tặng quà, trao vốn và phương tiện sản xuất… cho người dân. Những nỗ lực này góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào Khmer.

Đắk Lắk triển khai các phương án ứng phó với bão số 15

Đắk Lắk triển khai các phương án ứng phó với bão số 15

Chiều 27/11, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành công điện khẩn về việc chủ động triển khai phương án ứng phó với bão số 15 và mưa lũ trên địa bàn. Đây là cơn bão có cường độ mạnh, diễn biến phức tạp và được dự báo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực trên địa bàn tỉnh.

Ngôi nhà Ánh Dương hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực ở vùng cao

Ngôi nhà Ánh Dương hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực ở vùng cao

Ngày 27/11, Quỹ Phát triển cộng đồng tỉnh Điện Biên phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức lễ khánh thành và ra mắt mô hình dịch vụ Một cửa - Ngôi nhà Ánh Dương. Đây là mô hình hỗ trợ toàn diện dành cho phụ nữ và trẻ em gái bị bạo lực trên địa bàn, với mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu và góp phần xây dựng môi trường sống an toàn hơn cho cộng đồng.

Chắp cánh ước mơ cho học sinh nghèo vùng biên

Chắp cánh ước mơ cho học sinh nghèo vùng biên

Những năm qua, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới, lực lượng Biên phòng Thanh Hóa tích cực triển khai nhiều chương trình an sinh xã hội ý nghĩa. Nổi bật là chương trình "Con nuôi Đồn Biên phòng" triển khai từ năm 2019, đã trở thành điểm sáng nhân văn, thắp lên hy vọng và mở lối tri thức cho nhiều học sinh vùng cao.

Bảo tồn nguồn gene dược liệu để xóa nghèo bền vững

Bảo tồn nguồn gene dược liệu để xóa nghèo bền vững

Với điều kiện tự nhiên và khí hậu đa dạng, Lào Cai sở hữu một kho báu dược liệu phong phú với hàng trăm loài cây thuốc quý hay còn được gọi là "vàng xanh", những sản phẩm không chỉ giúp người dân địa phương vươn lên xóa nghèo bền vững mà còn từng bước vươn xa, xây dựng thương hiệu dược liệu bản địa.

Khẩn trương xử lý sạt lở, thông tuyến Quốc lộ 27C và đèo Mimosa trước ngày 1/12

Khẩn trương xử lý sạt lở, thông tuyến Quốc lộ 27C và đèo Mimosa trước ngày 1/12

Trước tình hình mưa lũ kéo dài gây thiệt hại nặng nề cho kết cấu hạ tầng giao thông tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa và Lâm Đồng, Bộ Xây dựng vừa ban hành công điện yêu cầu các đơn vị liên quan tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả, bảo đảm giao thông an toàn, thông suốt trên các tuyến quốc lộ, trục giao thông chính và tuyến đường sắt Bắc - Nam qua khu vực Nam Trung Bộ.

Cà phê Sơn La được mùa, được giá, nông dân phấn khởi

Cà phê Sơn La được mùa, được giá, nông dân phấn khởi

Sơn La hiện có diện tích, sản lượng cà phê chè Arabica lớn nhất cả nước, với hơn 30.000 ha, sản lượng trung bình đạt 40.000 - 50.000 tấn quả tươi/năm. Thời điểm này, trên những nương đồi người dân đang rộn ràng bước vào vụ thu hoạch quả cà phê, với giá từ 30 nghìn đồng/kg trở lên mang lại thu nhập rất cao cho người trồng, nhân dân rất vui mừng, phấn khởi.

Đắk Lắk: Sạt lở núi gây thiệt hại lớn cho người dân vùng sâu

Đắk Lắk: Sạt lở núi gây thiệt hại lớn cho người dân vùng sâu

Mưa lớn kéo dài đã dẫn đến tình trạng sụt lún, sạt lở đất tại thôn Vĩnh Xuân, xã Tuy An Tây, tỉnh Đắk Lắk gây thiệt hại lớn cho người dân về nhà cửa, đường sá và các công trình hạ tầng khác. Hiện người dân nơi đây vẫn chưa thể quay về nhà ở do nguy cơ ngã đổ, mất an toàn tính mạng.