Tăng cường dạy Tiếng Việt, giúp học sinh vùng dân tộc thiểu số tự tin giao tiếp

Lâm Đồng là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 683.000 người, chiếm 17,6% dân số. Với mong muốn giúp các em nhỏ vùng cao tự tin hơn khi đến trường, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức, những năm qua, ngành Giáo dục Lâm Đồng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”, mang lại những chuyển biến tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền.

lam-dong-1710.jpg
Môn tiếng Việt được tăng cường lồng ghép trong nhiều môn học khác tại Trường Tiểu học Hàm Cần 2, xã Hàm Thạnh.

Linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt

Tại Trường Tiểu học Hàm Cần 2 (xã Hàm Thạnh), tiếng cười nói rộn rã của học sinh Raglai vang khắp sân trường. Đây là một trong những đơn vị thực hiện hiệu quả đề án. Năm học 2025 - 2026, trường có 204 học sinh, trong đó 80% là người dân tộc Raglai. Do đặc thù của địa phương, mỗi dịp hè, nhà trường chủ động mở lớp dạy phụ đạo 3 tuần (18 tiết/tuần) cho học sinh dân tộc thiểu số chuẩn bị vào lớp 1, giúp các em làm quen với Tiếng Việt trước khi bước vào năm học mới.

Cô Dương Thị Thắng, giáo viên lớp 1A1 Trường Tiểu học Hàm Cần 2 chia sẻ: “Nhiều em khi đến trường vẫn quen nói tiếng mẹ đẻ nên gặp khó khăn trong giao tiếp và học tập. Vì vậy, giáo viên luôn chú trọng rèn luyện, giúp các em hình thành bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kỹ năng giao tiếp; khuyến khích các em diễn đạt tròn câu, mạnh dạn bày tỏ ý kiến bằng Tiếng Việt".

Trước đây, vào chương trình chính khóa, trường tổ chức dạy tăng cường Tiếng Việt 2 tiết/tuần cho học sinh, chủ yếu là nâng cao khả năng nghe, nói cho các em. Tuy nhiên năm học này, do một số nguyên nhân khách quan, nhà trường chưa thể tổ chức dạy thành tiết riêng. Thay vào đó, trường vẫn linh hoạt tổ chức lồng ghép nội dung tăng cường Tiếng Việt trong các tiết học chính khóa, giúp học sinh vừa học ngôn ngữ vừa tiếp thu kiến thức các môn khác.

Cùng với đó, trường xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động thư viện; tổ chức linh hoạt các hoạt động trải nghiệm, trò chơi học tập, giao lưu Tiếng Việt; tuyên truyền nâng cao nhận thức cho giáo viên, cha mẹ học sinh và cộng đồng về việc tăng cường Tiếng Việt… Nhờ đó, các em ngày càng tự tin giao tiếp, hiểu bài tốt hơn, tạo nền tảng cho việc học ở các cấp tiếp theo.

Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hàm Cần 2 Lê Kim Long cho biết, sau gần 10 năm triển khai đề án, nhận thức của phụ huynh và cộng đồng về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số đã thay đổi rõ rệt, 100% học sinh dân tộc thiểu số trong trường đã được tăng cường Tiếng Việt. Hầu hết, các em đều có khả năng nắm bắt ngôn ngữ, thường xuyên giao tiếp bằng Tiếng Việt, mạnh dạn, tự tin, có kiến thức cơ bản khi vào lớp 1. Từ lớp 2 đến lớp 5, năng lực sử dụng Tiếng Việt của các em tiến bộ rõ rệt. Đa số các em có khả năng nói, nghe hiểu để giao tiếp trong sinh hoạt và đáp ứng yêu cầu học tập.

lam-dong2-1710.jpg
Giáo viên Trường Tiểu học Lâm Giang, xã Hàm Thuận Bắc sử dụng tranh ảnh để dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh đồng bào dân tộc Chăm.

Tương tự, Trường Tiểu học Lâm Giang, xã Hàm Thuận Bắc đang là điểm sáng trong việc triển khai dạy Tiếng Việt cho học sinh người Chăm. Những giờ học Tiếng Việt ở đây không khô khan, mà tràn đầy tiếng hát, tiếng cười. Các em vừa học vừa chơi, qua tranh ảnh, trò chơi, bài hát quen thuộc, từng bước tích lũy vốn từ và kỹ năng ngôn ngữ. Nhiều học sinh trước kia rụt rè, nay đã mạnh dạn đứng lên phát biểu, tự tin đọc thơ, kể chuyện trước lớp.

Em Xích Ngọc Như Lê, học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Lâm Giang chia sẻ: “Ban đầu, em thấy học Tiếng Việt rất khó vì phát âm và từ ngữ khác với tiếng dân tộc của em. Nhờ thầy cô kiên nhẫn dạy dỗ, em dần hiểu và nói tốt hơn. Bây giờ, em có thể đọc nhiều sách, truyện hay và tự tin trò chuyện với bạn bè. Em rất vui vì Tiếng Việt giúp em hòa nhập và hiểu thêm nhiều điều mới”.

Năm học 2025 - 2026, Trường Tiểu học Lâm Giang có 284 học sinh, trong đó 99% là con em đồng bào Chăm. Đặc biệt, trường có 4 giáo viên người bản địa, am hiểu ngôn ngữ, văn hóa địa phương và có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy ở các vùng dân tộc thiểu số. Điều này tạo sự thuận lợi trong việc truyền đạt từ ngữ, đọc hiểu cho các em. Ngoài ra, các lớp trong trường còn thiết kế môi trường Tiếng Việt mở, thân thiện, có bảng góc chữ cái, góc “Em học Tiếng Việt”, “Kiến thức tiếng Việt”… giúp các em tương tác, thực hành và phát triển kỹ năng ngôn ngữ một cách tự nhiên.

Ông Trần Văn Tiếng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lâm Giang cho biết, trường tăng cường dạy Tiếng Việt trong tất cả môn học từ Toán, Âm nhạc đến Thể dục để học sinh thường xuyên tiếp xúc và vận dụng trong nhiều tình huống khác nhau. Đồng thời, nhà trường lồng ghép các yếu tố văn hóa địa phương vào bài giảng để tạo sự hứng thú, giúp các em tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, khuyến khích sự chủ động giao tiếp của học sinh.

Nâng cao chất lượng học tập

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, song, việc dạy tăng cường Tiếng Việt vẫn còn khó khăn. Nhiều trường thiếu cơ sở vật chất, phòng chức năng phục vụ dạy học; nguồn lực xã hội hóa hạn chế, kinh phí tổ chức hoạt động còn ít. Ngoài ra, nhận thức chưa đầy đủ của một số phụ huynh cũng khiến trẻ gặp trở ngại khi bắt đầu học Tiếng Việt.

lam-dong3-1710.jpg
Các em học sinh dân tộc Raglai ở Trường Tiểu học Hàm Cần 2, xã Hàm Thạnh được rèn luyện kỹ năng đọc, hiểu, viết tiếng Việt.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhờ sự quan tâm của các cấp, ngành và nỗ lực của đội ngũ giáo viên, khả năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt của học sinh được cải thiện rõ rệt; góp phần nâng cao chất lượng học tập và tạo tiền đề thuận lợi cho các bậc học tiếp theo.

Những nỗ lực bền bỉ của ngành Giáo dục Lâm Đồng trong việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc thiểu số đã và đang tạo nên những thay đổi rõ rệt, không chỉ ở kỹ năng ngôn ngữ mà còn ở sự tự tin, khát vọng vươn lên của mỗi em nhỏ. Từ những lớp học vùng sâu, vùng xa, Tiếng Việt đã trở thành cầu nối tri thức, mở ra cơ hội học tập và tương lai tươi sáng hơn cho trẻ em dân tộc thiểu số; góp phần xây dựng một nền giáo dục toàn diện, bình đẳng và giàu bản sắc trên quê hương Lâm Đồng./.

Dân tộc Ra Glai

Nhóm địa phương: Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...

Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác.

Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.

Hoạt động sản xuất: Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước.

Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Ra Glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.

Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Nam nữ, người già, người trẻ Ra Glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.

Ðàn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra Glai, các bộ phận của đàn được làm bằng các chất liệu khác nhau: nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi tay phải giữ bệ đàn, thân đàn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gầy vào đầu nốt nhạc.

Ăn: Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Ðồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.

Mặc: Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ trắng xen kẽ nhau.

: Người Ra Glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500-1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Ðồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.

Phương tiện vận chuyển: Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra Glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết "Hội đồng già làng" hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng... Tầng lớp thày cúng cũng đã hình thành. Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra Glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra Glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình: nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.

Sinh đẻ: Trước và sau khi sinh nở, phụ nữ Ra Glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Một số nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.

Ma chay: Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.

Thờ cúng: Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.

Lễ tết: Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Ðây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.

Văn nghệ: Ðó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Ðó cúng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra Glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ra Glai

Có thể bạn quan tâm

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà dự Lễ khởi công trường phổ thông nội trú liên cấp tại Lạng Sơn

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà dự Lễ khởi công trường phổ thông nội trú liên cấp tại Lạng Sơn

Ngày 9/11, tại Khu tái định cư Pắn Pé, thôn Hợp Thành, xã Khuất Xá (Lạng Sơn), Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà cùng lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện nghi thức động thổ khởi công xây dựng công trình trường Phổ thông nội trú liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở Khuất Xá.

Hiện thực giấc mơ 'an cư' của người dân bị ảnh hưởng lũ bản Phá Mựt

Hiện thực giấc mơ 'an cư' của người dân bị ảnh hưởng lũ bản Phá Mựt

Khi trận lũ ống, lũ quét tàn phá gây thiệt hại nặng nề đối với nhiều bản làng trên địa bàn miền núi, biên giới xã Nhôn Mai (tỉnh Nghệ An) vào cuối tháng 7/2025, bản Phá Mựt, nằm cách trung tâm xã gần 10km, nơi có có 36 hộ với hơn 170 nhân khẩu là đồng bào dân tộc Mông gần như bị xóa sổ.

Tặng bò giống cho các hộ dân khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia

Tặng bò giống cho các hộ dân khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia

Trong khuôn khổ chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ hai, ngày 8/11, tại xã biên giới Long Thuận, tỉnh Tây Ninh, thừa ủy quyền của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng phối hợp với UBND tỉnh Tây Ninh và chính quyền huyện Svay Teap, tỉnh Svay Rieng, Vương quốc Campuchia tổ chức chương trình tặng bò giống cho các hộ dân nghèo hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia.

Phát huy bản sắc văn hóa gắn với đào tạo nguồn nhân lực vùng cao

Phát huy bản sắc văn hóa gắn với đào tạo nguồn nhân lực vùng cao

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, cùng với cả nước, công tác lấy ý kiến góp ý vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đang được triển khai nghiêm túc từ tỉnh đến cơ sở tại các huyện vùng cao. Các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên tỉnh Tuyên Quang bày tỏ sự đồng tình, tin tưởng vào định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đồng thời có nhiều đề xuất cụ thể nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vùng cực Bắc.

Yên Phú ấm lại từ những vòng tay sẻ chia

Yên Phú ấm lại từ những vòng tay sẻ chia

Những ngày sau lũ, cuộc sống của bà con xã Yên Phú, tỉnh Tuyên Quang chồng chất khó khăn, nhiều gia đình gần như trắng tay. Trong cái bộn bề ấy, tình người đã kịp thời được nối dài.

Mưa lũ sau bão số 13 cuốn trôi một cầu dân sinh ở Đắk Lắk

Mưa lũ sau bão số 13 cuốn trôi một cầu dân sinh ở Đắk Lắk

Ngày 8/11, ông Võ Sỹ Tùng, Chủ tịch UBND xã Ea Kiết, tỉnh Đắk Lắk cho biết, lãnh đạo xã cùng các ngành chức năng của tỉnh vừa tiến hành kiểm tra khu vực cây cầu dân sinh số 2 đường vào buôn H’Mông bị nước lũ cuốn trôi, gây chia cắt giao thông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đi lại, canh tác của hơn 300 hộ dân, với gần 1.000 nhân khẩu.

Ấm áp nghĩa tình hướng về đồng bào vùng bão

Ấm áp nghĩa tình hướng về đồng bào vùng bão

Sau khi cơn bão số 13 đi qua, nhiều khu vực phía Đông tỉnh Đắk Lắk bị ảnh hưởng nặng nề gây thiệt hại về tài sản, làm ngập hàng trăm ngôi nhà. Hướng về vùng tâm bão, sáng 8/11, Ban Phụ nữ và Ban Thanh niên, Công an tỉnh Đắk Lắk đã phát động phong trào quyên góp, ủng hộ nhu yếu phẩm giúp người dân vùng thiệt hại.

Mặt trận Tổ quốc phải hướng mạnh về cơ sở và là nơi người dân gửi gắm niềm tin

Mặt trận Tổ quốc phải hướng mạnh về cơ sở và là nơi người dân gửi gắm niềm tin

Sáng 8/11, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Tuyên Quang tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, với chủ đề “Phát huy truyền thống quê hương cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; chung sức xây dựng tỉnh Tuyên Quang phát triển, vững bước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Đây là dấu mốc quan trọng diễn ra sau khi hợp nhất, sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng trực thuộc mặt trận.

Xã lòng hồ Hòa Bình phấn đấu thành điểm sáng nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu

Xã lòng hồ Hòa Bình phấn đấu thành điểm sáng nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu

Xã Thung Nai, tỉnh Phú Thọ là địa phương có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch và nông nghiệp. Phát huy kết quả đạt chuẩn nông thôn mới, xã đang quyết tâm xây dựng các xóm nông thôn mới kiểu mẫu, hướng tới nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và cảnh quan nông thôn. Hiện Thung Nai đã có 3 xóm đạt chuẩn kiểu mẫu, chính quyền địa phương quyết tâm thực hiện nhân rộng xóm nông thôn mới kiểu mẫu trên toàn địa bàn.

Khởi đầu mới cho những hộ dân vùng lũ Nghệ An

Khởi đầu mới cho những hộ dân vùng lũ Nghệ An

Cơn lũ lịch sử do ảnh hưởng của bão số 10 đã cuốn trôi nhiều ngôi nhà tại các địa phương miền núi trong tỉnh Nghệ An. Giữa mất mát ấy, những tấm lòng yêu thương từ cộng đồng, đặc biệt là sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Công an, hàng trăm ngôi nhà kiên cố, khang trang đang dần hình thành trên những khu đất tái định cư an toàn ở miền Tây xứ Nghệ.

Nghệ An khởi công xây dựng nhà mới cho 15 hộ dân bị lũ quét

Nghệ An khởi công xây dựng nhà mới cho 15 hộ dân bị lũ quét

Ngày 7/11, ông Mạc Văn Nguyên, Bí thư Đảng ủy xã Nhôn Mai, tỉnh Nghệ An cho biết: Cấp ủy, chính quyền địa phương đã tổ chức lễ động thổ khởi công xây dựng nhà ở cho 15 hộ dân ở bản Huổi Tố 2 có nhà bị sập, cuốn trôi hoàn toàn do đợt lũ ống, lũ quét xảy ra trên địa bàn vào cuối tháng 7/2025 gây ra.

Khắc phục bão số 13: Đắk Lắk chủ động ứng phó khi hồ thủy lợi Ea Súp Thượng xả lũ

Khắc phục bão số 13: Đắk Lắk chủ động ứng phó khi hồ thủy lợi Ea Súp Thượng xả lũ

Do ảnh hưởng của cơn bão số 13 (Kalmaegi), từ tối 6/11 đến rạng sáng 7/11, trên địa bàn xã Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk có mưa rất to, lượng nước đổ về hồ thủy lợi Ea Súp Thượng tăng đột biến, buộc đơn vị quản lý phải vận hành xả lũ để đảm bảo an toàn công trình và vùng hạ du.

Quảng Ngãi chủ động di dời dân ra khỏi vùng nguy cơ sạt lở

Quảng Ngãi chủ động di dời dân ra khỏi vùng nguy cơ sạt lở

Chiều 6/11, lãnh đạo Ủy ban nhân dân các xã Ngọc Linh, Đăk Tờ Kan, tỉnh Quảng Ngãi cho biết: Chính quyền địa phương đã chủ động di dời hàng trăm hộ dân ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở, thiên tai, nguy hiểm đến tính mạng của người dân.

Khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho người dân khu vực biên giới

Khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho người dân khu vực biên giới

Trong khuôn khổ chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ hai, ngày 6/11, tại xã biên giới Long Thuận, tỉnh Tây Ninh, các đơn vị quân y của Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng vũ trang và quân y Quân đội Hoàng gia Vương quốc Campuchia tổ chức khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho người dân khu vực biên giới tỉnh Tây Ninh và người dân thị xã Bavet, tỉnh Svay Rieng, Vương quốc Campuchia.