Khu Du lịch sinh thái Măng Đen được quy hoạch là một trong hai vùng phát triển du lịch chủ lực của tỉnh Quảng Ngãi. Không chỉ được biết đến với khí hậu mát mẻ quanh năm, cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, Măng Đen còn là “cái nôi” của thương hiệu Cà phê xứ lạnh Măng Đen; là nơi tạo ra dấu ấn du lịch riêng có bằng hình thức lưu trú, nghỉ dưỡng homestay.

Nhờ nguồn vốn vay chính sách xã hội, chị Y The tại thôn Kon Chênh (xã Măng Đen, tỉnh Quảng Ngãi) đã phát triển gần 2 ha cà phê xứ lạnh. Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN
Trong quá trình xây dựng và phát triển các thương hiệu riêng, mang tính đặc trưng của Măng Đen, có sự đóng góp không nhỏ của nguồn vốn tín dụng chính sách. Nhờ nguồn vốn này, bà con đã có điều kiện mở rộng diện tích cà phê xứ lạnh, hoàn thiện các mô hình homestay để phục vụ nhu cầu của du khách, người tiêu dùng.
Từ “Cà phê xứ lạnh Măng Đen”
Theo thống kê của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Kon Plông, đến hết tháng 9/2025, đơn vị đã cho vay phát triển cà phê xứ lạnh với tổng dư nợ gần 27 tỷ đồng, với 378 hộ vay, tổng diện tích trồng khoảng 193 ha. Nguồn vốn giúp bà con có điều kiện mở rộng diện tích, đầu tư phân bón, giống cây, cải tạo vườn tạp. Nhiều hộ đã hình thành vùng sản xuất cà phê tập trung, sản phẩm có chất lượng tốt, từng bước tham gia vào chuỗi giá trị và thị trường, thu nhập bình quân từ cà phê xứ lạnh tăng từ 50 - 60% so với trước khi vay vốn.
Ông Đỗ Phú Cường, Phó Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Kon Plông cho biết, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền địa phương luôn xác định phát triển cà phê xứ lạnh là một trong những hướng đi tiềm năng, phù hợp với điều kiện khí hậu và địa hình của địa phương, góp phần tạo việc làm, ổn định đời sống, tăng thu nhập cho người dân.
“Nguồn vốn tín dụng chính sách không chỉ giúp người dân đầu tư phát triển sản xuất, mà còn tạo động lực thay đổi tư duy sản xuất, góp phần quan trọng vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp bền vững và xây dựng thương hiệu địa phương. Đặc biệt tại Măng Đen, đây là yếu tố then chốt giúp đưa cây cà phê xứ lạnh trở thành cây trồng chủ lực, gắn với chiến lược phát triển kinh tế nông thôn mới”, ông Đỗ Phú Cường cho biết thêm.

Cán bộ Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Kon Plông thăm hỏi, hỗ trợ người dân trong phát triển diện tích cà phê. Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN
Chị Y The, trú thôn Kon Chênh, xã Măng Đen cho biết, năm 2011, hoàn cảnh kinh tế của gia đình chị rất khó khăn, thu nhập bấp bênh từ việc đi làm thuê và trồng lúa, trồng sắn. Nhận thấy tiềm năng từ cây cà phê xứ lạnh Arabica, chị mạnh dạn làm thủ tục vay 30 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội để trồng 2.000 cây cà phê. Tuy nhiên, do chưa nắm rõ kỹ thuật trồng, chăm sóc, nên thu nhập từ cà phê không cao, chỉ khoảng 60 triệu/năm.
Sau đó, được sự hướng dẫn của ngành nông nghiệp và cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội, chị Y The đã thay đổi phương thức canh tác và chăm sóc cà phê. Năm 2022, chị tiếp tục vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để trồng mới 3.000 cây cà phê; đồng thời tái canh diện tích cà phê già cỗi. Đến nay, gần 2 ha cà phê của gia đình chị đã phát triển tốt hơn trước, chuẩn bị cho thu hoạch, được kỳ vọng mang đến nguồn thu ổn định, bền vững, với mức thu cao hơn khoảng 60%.
Đến dịch vụ lưu trú homestay

Nhờ khoản vay 170 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội, gia đình chị Y Tuấn đã hoàn thiện được homestay khang trang, đón khoảng 1.000 khách mỗi năm, cho thu nhập khoảng 400 triệu đồng. Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN
Dịch vụ lưu trú homestay là hình thức du lịch không mới, nhưng đòi hỏi nguồn vốn lớn, cũng như việc cung ứng các dịch vụ đi kèm phải phù hợp với xu thế và thị hiếu, nhu cầu của du khách. Tại Măng Đen, dịch vụ homestay phần lớn được gắn liền với cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ như Mơ Nâm, Ca Dong (là các nhánh của dân tộc Xơ Đăng). Tuy nhiên, bà con thường gặp khó khăn về mặt tài chính; đồng thời, còn thiếu kỹ năng về phục vụ ẩm thực hay các hoạt động trải nghiệm theo nhu cầu của du khách.
Để có được nguồn tài chính hoàn thiện các dự án homestay, nhiều bà con trên địa bàn xã Măng Đen đã tìm đến nguồn vốn tín dụng chính sách. Chị Y Tuấn (trú thôn Kon Chênh, xã Măng Đen) là một điển hình. Nhận thấy trung tâm xã Măng Đen thường xuyên xảy ra tình trạng không còn chỗ trống trong các cơ sở lưu trú; đồng thời, từ trung tâm xã đến làng Kon Chênh chỉ khoảng 5km, vợ chồng chị đã có ý tưởng phát triển dịch vụ lưu trú homestay.
Đầu năm 2024, vợ chồng chị Tuấn đến Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Kon Plông để làm thủ tục, vay 170 triệu đồng theo gói vay giải quyết việc làm. Cùng với nguồn vốn của gia đình, đến giữa năm 2024, chị Tuấn đã hoàn thành và đưa vào sử dụng homestay với 7 phòng, đảm bảo phục vụ cho nhu cầu lưu trú của hơn 50 khách. Bên cạnh lưu trú, chị cũng phát triển thêm dịch vụ ẩm thực với các món ăn truyền thống của dân tộc như gà nướng cơm lam, rau rừng,… để du khách trải nghiệm, thưởng thức.
“Từ khi đi vào hoạt động đến nay, lượng khách đến với homestay của gia đình tôi rất đông. Trung bình, một năm tôi đón khoảng 1.000 lượt khách, thu về hơn 400 triệu đồng. Hiện nay, gia đình tôi mong muốn tiếp tục được vay thêm vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội để mở rộng mô hình homestay, nâng cao chất lượng phục vụ du khách cũng như nhân rộng mô hình đến với nhiều bà con trong thôn hơn”, chị Y Tuấn nói.
Theo ông Đỗ Phú Cường, hiện nay toàn xã Măng Đen có 26 hộ vay vốn chính sách xã hội để phát triển mô hình homestay, tổng dư nợ gần 2,6 tỷ đồng. Nguồn vốn giúp các hộ mạnh dạn đầu tư cơ sở lưu trú, cải thiện hạ tầng, xây dựng dịch vụ đón khách du lịch. Một số homestay bước đầu hoạt động hiệu quả, thu hút khách du lịch, tạo việc làm cho lao động tại chỗ, nhất là thanh niên. Đây là mô hình góp phần quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ, phát triển du lịch cộng đồng, gắn với nông nghiệp sạch.

Cán bộ Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Kon Plông hỗ trợ người dân vay vốn phát triển kinh tế. Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN
Ông Trương Văn Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Măng Đen đánh giá, nhờ nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội, diện tích cà phê xứ lạnh trên địa bàn xã tăng đều theo từng năm, góp phần chuyển đổi cây trồng hiệu quả, nâng cao nhận thức và kỹ thuật canh tác, tạo sinh kế bền vững cho bà con nhân dân, nhất là bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó đến nay, tổng diện tích cà phê xứ lạnh của xã đạt 680,4 ha; trong đó trồng mới năm 2025 gần 186 ha.
Nhờ vào việc phát triển vùng nguyên liệu rộng lớn, hiện nay trên địa bàn xã cũng đã có nhiều đơn vị, doanh nghiệp trực tiếp thu mua cà phê xứ lạnh Arabica để chế biến sâu, tạo ra thành phẩm cà phê được người tiêu dùng ưa chuộng, đưa thương hiệu “Cà phê xứ lạnh Măng Đen” đến với người dân trên khắp cả nước. Điển hình trong đó như thương hiệu Café de Măng Đen, T' Măng Deeng, Rẩy Rừng Coffee,…
Trong khi đó, hình thức du lịch homestay đang được bà con nhân dân trên địa bàn xã tích cực triển khai; là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển du lịch của Măng Đen. Nhờ vào việc vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội, bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có thêm nguồn tài chính để hoàn thiện homestay, tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng riêng của vùng đất “ba hồ, bảy thác” Măng Đen.
“Cùng với sự hỗ trợ của các cấp, nguồn vốn chính sách đã giúp hình thành vùng nguyên liệu tập trung, là nền tảng cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu “Cà phê xứ lạnh Măng Đen”. Một số mô hình đã kết hợp trồng cà phê với du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, homestay, tạo giá trị gia tăng và lan tỏa lợi ích kinh tế trong cộng đồng; phát huy bản sắc văn hóa của bà con dân tộc thiểu số tại chỗ. Qua đó, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định, bền vững cho người dân, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, hiện thực hóa mục tiêu tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,5% vào cuối năm 2025”, ông Trương Văn Minh nhấn mạnh./.
Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.
Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.
Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.
Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.
Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.
Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.
Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.
Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.
Ở: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.
Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.
Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.
Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.
Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.
Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.
Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.
Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...
Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.
Theo cema.gov.vn
