Y Lim, người bảo tồn nghề nấu rượu cần dân tộc Xơ Đăng

Được biết đến như “đầu tàu” trong phát triển du lịch cộng đồng tại huyện Kon Plông, những năm qua, Nghệ nhân ưu tú Y Lim (sinh năm 1970, trú Làng du lịch cộng đồng Kon Pring, thị trấn Măng Đen) đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng và lan tỏa hình ảnh, văn hóa, nghệ thuật độc đáo của người Xơ Đăngđến với du khách trong và ngoài nước. Một trong những nét độc đáo của người Xơ Đăng đã được Nghệ nhân ưu tú Y Lim bảo tồn và phát huy là nghề nấu rượu cần – loại rượu đặc trưng của người dân tộc thiểu số tại chỗ khu vực Tây Nguyên.

Anh 1cp1.jpg
Nghệ nhân ưu tú Y Lim đang chuẩn bị những ghè rượu cần để giao cho khách

Sinh ra và lớn lên tại làng Kon Rốc, xã Ngọc Réo, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, nhưng Y Lim lại gắn cuộc sống của mình cũng như công tác bảo tồn các giá trị văn hóa của người dân tộc thiểu số Xơ Đăng tại Làng du lịch cộng đồng Kon Pring. Không chỉ xây dựng hình ảnh du lịch cho làng bằng dịch vụ lưu trú homestay đầu tiên, Y Lim còn cung cấp các sản phẩm văn hóa, ẩm thực đặc trưng của người Xơ Đăng cho du khách, trong đó có rượu cần.

Y Lim “bén duyên” với nghề nấu rượu cần từ năm 2004. Thời điểm đó, thấy những người nấu rượu trong làng nấu để sử dụng trong các hoạt động của làng, Y Lim cũng mày mò, học hỏi những người đi trước để nấu. Ban đầu, rượu nấu ra chưa ngon, Y Lim không bỏ cuộc mà tiếp tục nghiên cứu, đưa ra các phương pháp nấu sao cho vị rượu được ngon hơn.

“Đến năm 2018, mình bắt đầu nấu rượu để cung cấp cho du khách đến tham quan, trải nghiệm tại làng. Sau nhiều năm học tập thì rượu mình nấu ra cũng ngon, được nhiều người khen, nhưng do cách bảo quản rượu chưa tốt nên một số lần khách cũng chưa ưng ý. Sau này, tôi phơi nguyên liệu và nấu tại xã Ngọc Réo, rồi đưa lên Măng Đen ủ, nên rượu đã ngon hơn rất nhiều, được du khách và một số nhà hàng trên địa bàn thị trấn sử dụng thường xuyên”, Nghệ nhân ưu tú Y Lim kể.

Theo nghệ nhân Y Lim, đối với nấu rượu cần, quan trọng nhất là khâu nấu rượu. Người nấu phải biết cách nấu nóng nước, đến một nhiệt độ nhất định sẽ đổ gạo vào. Sau đó, phải đo lượng nước so với lượng gạo sao cho đảm bảo tỉ lệ, không quá thừa hoặc không quá thiếu. Khi trộn với mem, hỗn hợp nước và gạo phải ở một nhiệt độ vừa phải, không quá nóng cũng không quá nguội. Khi đó, sẽ tạo ra rượu có vị thơm ngon nhất.

Anh 2.JPG
Rượu cần Y Lim được dán mác sản phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng

Ngoài ra, một yếu tố khác không kém phần quan trọng là men lá. Lá phải được phơi dưới lửa, để khô vừa phải. Đến khi lá khô có thể cháy được, thì đem ra vò, trộn với cơm để tạo được vị thơm. Sau khi trộn đều các nguyên liệu, rượu sẽ được mang đi ủ trong thời gian từ 3 – 4 tháng.

“Mỗi tháng mình sẽ nấu khoảng 50 ghè rượu cần, mỗi ghè có dung tích từ 4 – 6 lít. Sau khi đủ thời gian ủ, mình sẽ bán cho du khách hoặc các nhà hàng với giá từ 350.000 đồng/ghè. Khi khách đến mua rượu, mình sẽ để cho mọi người thử rượu trước, nếu ngon mới lấy, chưa ngon thì sẽ ủ tiếp hoặc có phương pháp thay đổi để rượu ngon hơn”, Nghệ nhân ưu tú Y Lim nói.

Bên cạnh việc nấu rượu, Y Lim cũng tích cực truyền đạt cách nấu rượu cần của người Xơ Đăng cho thế hệ trẻ trong làng. Mỗi khi nấu, Y Lim thường gọi thanh niên trong làng lại, vừa nấu, vừa truyền dạy cho các em. Đến nay, đã có 4 – 5 thanh niên trong làng Kon Rốc, xã Ngọc Réo, huyện Đăk Hà biết cách nấu rượu cần.

“Rượu cần không chỉ là một loại thức uống, mà còn là nét văn hóa của người Xơ Đăng tại Kon Tum. Vì vậy, mình luôn nhận thức được vai trò và trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy nghề nấu rượu cần, luôn hỗ trợ, giúp đỡ những bạn trẻ trong làng để họ nấu rượu được ngon hơn. Khi rượu ngon sẽ được nhiều người biết đến, rượu cần của người Xơ Đăng sẽ không bị mai một, trở thành một nghề mưu sinh cho bà con”, Nghệ nhân ưu tú Y Lim tâm sự.

Ông Đặng Đình Toán, Trưởng phòng Văn hóa huyện Kon Plông cho biết, năm 2020, bà Y Lim được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú trong việc bảo tồn nét văn hóa cồng chiêng. Nghệ nhân ưu tú Y Lim rất nhanh nhạy trong việc phát triển kinh tế gắn với nghề nấu rượu cần truyền thống của người Xơ Đăng tại chỗ.

“Việc nấu rượu cần của Nghệ nhân ưu tú Y Lim đã góp phần mang lại sự phong phú về ẩm thực mang tính đặc trưng của người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đến du khách cũng như người dân khi đến với Làng du lịch cộng đồng Kon Pring nói riêng và Khu du lịch Măng Đen nói chung. Qua đó, quảng bá nét văn hóa, ẩm thực, bảo tồn và phát huy nghề nấu rượu cần của bà con dân tộc Xơ Đăng”, ông Đặng Đình Toán khẳng định.

Tháng 9/2024, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Kon Tum đã vinh danh và khen thưởng Nghệ nhân ưu tú Y Lim vì đã có thành tích xuất sắc trong bảo tồn, phát huy giá trị nghề Làm rượu cần.

Dư Toán

(TTXVN)
Dân tộc Xơ Đăng

Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.

Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.

Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.

Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.

Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.


Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.

Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.

Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.

Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.

: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.

Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.

Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.

Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.

Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.

Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.

Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.

Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...

Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Xơ Đăng

Có thể bạn quan tâm

Nghệ An: Người phụ nữ Thái nặng lòng với trang phục truyền thống của dân tộc Ơ Đu

Nghệ An: Người phụ nữ Thái nặng lòng với trang phục truyền thống của dân tộc Ơ Đu

Hơn 15 năm qua, bà Vi Thị Dung, gần 80 tuổi, dân tộc Thái tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An), nơi đồng bào Ơ Đu tập trung sinh sống, vẫn luôn đau đáu việc gìn giữ, trao truyền bộ trang phục truyền thống của người Ơ Đu. Hiện nay, bà Vi Thị Dung là một trong số rất ít người tại bản Văng Môn nắm bắt được kỹ thuật dệt và nhớ được các mẫu họa tiết, hoa văn trên các bộ phận váy, dây thắt lưng, áo, khăn quàng của bộ trang phục truyền thống phụ nữ Ơ Đu.

'Người gieo mầm xanh' ở đất Sen hồng

'Người gieo mầm xanh' ở đất Sen hồng

Với lòng yêu nghề và kiến thức chuyên môn vững vàng, thầy Lê Văn Sơn, giáo viên Trường Trung học phổ thông Lấp Vò 1 (tỉnh Đồng Tháp) đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học. Thầy được ví như “người gieo mầm xanh”, tận tâm dìu dắt nhiều thế hệ học trò vươn tới thành công, trong đó có không ít em đạt giải cao trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia và được tuyển thẳng vào các trường đại học.

Nữ doanh nhân lan tỏa tinh hoa thảo dược quê hương

Nữ doanh nhân lan tỏa tinh hoa thảo dược quê hương

Với khát vọng vươn lên, dám nghĩ dám làm, chị Mai Thị Thủy, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cao Dược liệu Định Sơn Mai Thị Thủy, xã Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, đã mạnh dạn khởi nghiệp, phát triển thương hiệu các sản phẩm dược liệu ở địa phương ra thị trường lớn, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.

Nữ giám đốc 9X khởi nghiệp từ hạt gạo vươn ra thế giới

Nữ giám đốc 9X khởi nghiệp từ hạt gạo vươn ra thế giới

Giám đốc Công ty TNHH MEDIFOOD.IO Trần Mạc Vân Anh ở phường Chơn Thành (tỉnh Đồng Nai) là điển hình sáng về người phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo, đưa sản phẩm làm bằng hạt gạo truyền thống Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế, đồng thời có những đóng góp tích cực cho cộng đồng và phát triển bền vững.

Hành trình đưa nông sản Việt từ bản làng vươn ra thế giới

Hành trình đưa nông sản Việt từ bản làng vươn ra thế giới

Bà Thị Khưi (41 tuổi, người dân tộc M’nông) sống tại xã Thọ Sơn, tỉnh Đồng Nai không chỉ nối gót ông cha xây dựng quê hương mà còn trở thành Giám đốc một hợp tác xã trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tiên phong đưa nông sản Việt vươn ra thế giới. Bà còn góp phần phát triển nông nghiệp sạch bền vững, cải thiện cuộc sống ấm no cho đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương.

Người giữ 'lá chắn vi sinh' bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Người giữ 'lá chắn vi sinh' bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Gần 30 năm gắn bó với công tác xét nghiệm, nghiên cứu vi sinh và phòng chống dịch bệnh, bác sĩ Nguyễn Thị Tuyết Vân (sinh năm 1969), Trưởng khoa Vi sinh - Miễn dịch, Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên (phường Tân An, tỉnh Đắk Lắk) đã trở thành hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ tận tụy với nghề, luôn lấy lợi ích cộng đồng làm mục tiêu.

'Chim Chơ-rao đầu đàn' dũng cảm, nhân hậu ở đại ngàn Tây Nguyên

'Chim Chơ-rao đầu đàn' dũng cảm, nhân hậu ở đại ngàn Tây Nguyên

Trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giữa núi rừng Tây Nguyên khốc liệt, người phụ nữ Jrai tên Rơ Châm H’Yéo (sinh năm 1950, phường Pleiku, tỉnh Gia Lai) đã trở thành biểu tượng của lòng quả cảm và trung kiên. Bà được biết đến với nhiều danh hiệu như "Kiện tướng gùi đạn", "Dũng sĩ diệt Mỹ", "Dũng sĩ diệt xe cơ giới", "Người phụ nữ thép trên chiến trường Tây Nguyên".

'Bó đũa yêu thương' - nơi kết nối những trái tim người bệnh chạy thận ở Điện Biên

'Bó đũa yêu thương' - nơi kết nối những trái tim người bệnh chạy thận ở Điện Biên

Dù mang trong mình căn bệnh suy thận giai đoạn cuối nhưng với tấm lòng nhân ái, Thượng sỹ Giàng A Thắng, cán bộ Bệnh viện 7/5 (tỉnh Điện Biên) đã thành lập mô hình "bó đũa yêu thương” nhằm tạo việc làm, giúp người bệnh có thêm nguồn kinh phí để chữa bệnh. Mô hình còn là nơi kết nối những trái tim, giúp những bệnh nhân chạy thận ở Điện Biên vươn lên trong cuộc sống.

Cô đỡ thôn bản - những người giữ mạch sống nơi đại ngàn

Cô đỡ thôn bản - những người giữ mạch sống nơi đại ngàn

Từng là địa bàn vùng trũng về y tế cơ sở với tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh trong nhóm cao nhất cả nước, giờ đây, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tại tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Trong đó, không thể không kể đến sự đóng góp thầm lặng của những cô đỡ thôn bản đang ngày đêm tận tụy chăm sóc sự sống mới giữa núi rừng.

Hành trình gắn sao cho sữa bò Vĩnh Tường

Hành trình gắn sao cho sữa bò Vĩnh Tường

Trong khi nhiều người trẻ rời bỏ quê hương tìm kiếm cơ hội nơi phố thị thì anh Nguyễn Tiến Lộc (xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ) đã chọn quay về quê hương, mang theo khát vọng nâng tầm nông sản địa phương, đưa sản vật quê hương vươn xa.

Thu tiền triệu mỗi ngày từ rau rừng

Thu tiền triệu mỗi ngày từ rau rừng

Tại xã Nghĩa Trung (tỉnh Đồng Nai), nhiều nông dân ai cũng biết chàng trai người dân tộc Khmer Thạch Sum ngụ tại thôn 4 là một điển hình khởi nghiệp tiêu biểu cho tinh thần dám nghĩ, dám làm từ đặc sản cây rau nhíp rừng hoang dại thành nguồn thu nhập bền vững cho gia đình.

Người nông dân góp phần khẳng định vị thế nông sản Việt Nam trên bản đồ thế giới

Người nông dân góp phần khẳng định vị thế nông sản Việt Nam trên bản đồ thế giới

Từ đam mê với những chú ong nhỏ bé nhưng cần mẫn làm việc, ông Lê Lộc Quân (46 tuổi, xã Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai) từng bước gây dựng thương hiệu mật ong Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế. Không chỉ là nông dân sản xuất giỏi với doanh thu 25 tỷ đồng/năm, ông còn là người tiên phong ứng dụng công nghệ cao trong nuôi ong góp phần khẳng định vị thế mật ong Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu nông sản thế giới.

Người dân đồng thuận giao đất cho dự án cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành

Người dân đồng thuận giao đất cho dự án cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành

Dự án cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành đi qua xã Nha Bích (Đồng Nai) gần 10 km đã nhận được sự đồng thuận cao từ người dân, vượt kế hoạch giao mặt bằng của tỉnh đề ra. Dù phải hy sinh cả diện tích cao su đang khai thác, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập chính, nhiều hộ dân vẫn sẵn lòng làm gương, tiên phong giao đất.

Từ ruộng lúa biên cương đến thế trận lòng dân vững chắc

Từ ruộng lúa biên cương đến thế trận lòng dân vững chắc

Gần 25 năm qua, mô hình trồng lúa nước do Đồn Biên phòng Ia Púch (Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai) khởi xướng đã làm thay đổi căn bản đời sống của đồng bào Jrai ở xã Ia Púch, vùng biên giới phía Tây của tỉnh.

Quyết đoán giữa ranh giới sinh tử trong lũ dữ

Quyết đoán giữa ranh giới sinh tử trong lũ dữ

Trận lũ ống, lũ quét với mực nước vượt đỉnh lũ lịch sử xảy ra ngày 29/9 đã khiến bản Na Ngân (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) chịu thiệt hại nặng nề về nhà cửa, hoa màu, vật nuôi và giao thông. Sau khi lũ dữ đi qua, điều khiến người dân bản cảm thấy nhẹ lòng nhất là không có thiệt hại về người. Sự may mắn ấy phần lớn nhờ vào sự nhanh trí và quyết đoán của chàng trai trẻ Lương Văn Ủn (sinh năm 1992) - Phó Trưởng bản, Tổ trưởng Tổ an ninh bản Na Ngân.

Xuyên đêm, căng mình cùng nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai

Xuyên đêm, căng mình cùng nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai

Những ngày đầu tháng 10, mưa lớn kéo dài do hoàn lưu bão số 10 đã nhấn chìm nhiều xã, phường và các xã vùng cao biên giới của tỉnh Tuyên Quang. Sạt lở, ngập lụt, chia cắt giao thông xảy ra trên diện rộng, hàng nghìn hộ dân bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều người phải di dời khẩn cấp.

Làm giàu từ mô hình kinh tế tổng hợp

Làm giàu từ mô hình kinh tế tổng hợp

Nông dân Nguyễn Nhẫn (57 tuổi, ở thôn Kim Thành Thượng, xã Phước Giang, tỉnh Quảng Ngãi) với những thành công lớn trong phát triển kinh tế nông hộ đã vinh dự nhận danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc” năm 2025. Tấm gương của ông đã lan tỏa đến nhiều nông dân khác trong vùng, động lực để phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu chính trên chính mảnh đất quê hương.

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Năm 2025, thành phố Cần Thơ có 3 nông dân được Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là nông dân xuất sắc Việt Nam, trong đó có ông Trần Hồng Quan, ấp Trường Hiệp, xã Trường Long Tây. Với mô hình phát triển kinh tế - nuôi ba ba kết hợp trồng sầu riêng và lúa, nông dân Trần Hồng Quan thu lợi nhuận tiền tỷ mỗi năm.

Bí thư chi bộ sản xuất, kinh doanh giỏi, đi đầu trong các phong trào thi đua

Bí thư chi bộ sản xuất, kinh doanh giỏi, đi đầu trong các phong trào thi đua

Không chỉ phát triển kinh tế gia đình vững mạnh, tạo việc làm cho hàng chục lao động địa phương, anh Nguyễn Văn Long, sinh năm 1981, tiểu khu La Mát, phường Châu Sơn, tỉnh Ninh Bình còn là tấm gương tiêu biểu trong phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh tại địa phương. Anh vừa được vinh danh là Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2025.

Vươn lên làm giàu nhờ nông nghiệp công nghệ cao

Vươn lên làm giàu nhờ nông nghiệp công nghệ cao

Từ một vùng đất nghèo khó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng đã phát huy tiềm năng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, thương mại và dịch vụ; nhiều hộ dân đã mạnh dạn đầu tư nhà màng, nhà lưới, nuôi cá tầm, trồng dưa lưới… mang lại thu nhập cao.

Tuổi trẻ vượt khó, tự tin làm giàu trên quê hương

Tuổi trẻ vượt khó, tự tin làm giàu trên quê hương

Không bằng cấp nông nghiệp chuyên sâu, không nguồn vốn dồi dào, “vũ khí” lớn nhất là niềm đam mê chăn nuôi cháy bỏng và một ý chí sắt đá được tôi luyện từ những năm tháng phải nghỉ học sớm để phụ giúp gia đình, anh Lê Duy Bảo, sinh năm 1999, Bí thư Chi đoàn khóm 8, phường Tân Thành (Cà Mau) đã nhìn thấy cơ hội trong nghịch cảnh và quyết tâm biến khó khăn thành khởi đầu lập nghiệp.

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Tại tỉnh Đồng Nai, nhà nông là hộ dân tộc thiểu số đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đang mang lại hiệu quả vượt trội. Với sự hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước và vai trò cầu nối của Hội Nông dân, nhiều nông dân đã mạnh dạn thay đổi tư duy, từ bỏ lối canh tác truyền thống để tiếp cận các mô hình tiên tiến, mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Về xã Nam Trạch, hỏi ông Bế Văn Mai, ai cũng biết đến vì ông là “vua cam” trên vùng đất đồi này. Ông Bế Văn Mai (xã Nam Trạch, tỉnh Quảng Trị) là một trong những tấm gương tiêu biểu trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Từ ý tưởng nhen nhóm trong đại dịch COVID-19, với bản lĩnh, sự nhạy bén và tinh thần dám dấn thân, chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã gây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục ha, mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.

'Tỷ phú nông dân' trong phong trào đổi mới sáng tạo

'Tỷ phú nông dân' trong phong trào đổi mới sáng tạo

Phong trào đổi mới sáng tạo đang lan tỏa mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Nhiều nông dân đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững. Trong số đó, ông Nguyễn Văn Đường ở xã Phú Bình, là tấm gương tiêu biểu.

Mở lối phát triển nông nghiệp địa phương, giúp xóa đói giảm nghèo

Mở lối phát triển nông nghiệp địa phương, giúp xóa đói giảm nghèo

Phụ nữ Hưng Yên thời gian qua đã không ngừng nỗ lực trong phát triển kinh tế, vươn lên làm chủ cuộc sống. Họ không chỉ là người vợ, người mẹ tảo tần mà còn là những chủ doanh nghiệp tiên phong, mở lối phát triển nông nghiệp địa phương, đồng thời là cầu nối, hỗ trợ nông dân trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giúp xóa đói giảm nghèo, làm giàu trên mảnh đất quê hương.