Đầu năm học mới, nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội đã kịp thời tiếp sức cho hàng nghìn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Đồng Nai. Nhờ sự hỗ trợ thiết thực này, gánh nặng chi phí học tập đã được giải tỏa, giúp gia đình và các em an tâm hơn tiếp tục bám trường bám lớp để thực hiện ước mơ con chữ vào giảng đường.

Ghi nhận tại xã vùng sâu Phú Trung, tỉnh Đồng Nai, dù đã có tâm trạng vui nhưng ánh mắt vẫn còn đó nỗi lo âu, ông Điểu Brăng (52 tuổi) ở thôn Bình Trung kể lại câu chuyện về hành trình đến trường của con trai mình. Gia đình ông Brăng thuộc diện hộ đồng bào dân tộc thiểu số S’tiêng còn nhiều khó khăn. Vợ chồng ông Brăng cùng ba người con, năm miệng ăn đều trông cậy vào sản xuất nông nghiệp, đi làm thuê. Cuộc sống vốn đã vất vả, nhưng rồi niềm vui lớn lao đã đến khi người con trai duy nhất đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
Niềm vui vỡ òa, không chỉ gia đình ông Brăng mà cả dòng họ đều mừng cho con cháu. Thế nhưng, đằng sau niềm tự hào ấy là nỗi trăn trở về chi phí ăn học. Ông Điểu Brăng chia sẻ: "Khi con tôi đậu đại học, gia đình và dòng họ rất mừng. Nhưng khi nghĩ đến chi phí để đi học, gia đình lại lo lắng".
Tưởng chừng ước mơ của con sẽ phải tạm gác lại thì may mắn thay, gia đình ông Brăng đã được chính quyền địa phương giới thiệu về nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội. Với số tiền 60 triệu đồng từ gói vay sinh viên, gánh nặng tài chính như được cởi bỏ, giúp con ông Brăng có thể yên tâm nhập học đúng kỳ. “Có được nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách, gia đình tôi rất vui mừng và đỡ lo lắng trước mắt. Chúng tôi sẽ cố gắng làm ăn, dành dụm để phát triển kinh tế, trả lại tiền đã vay. Gia đình chúng tôi cảm ơn các cấp chính quyền và Ngân hàng đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho con được đến trường theo đúng ước mơ”, ông Brăng chia sẻ thêm.
Khoản tiền vay 60 triệu đồng không chỉ là một sự hỗ trợ tài chính, mà còn là một niềm tin, một động lực để gia đình ông Điểu Brăng tiếp tục nỗ lực. Niềm vui được nhân lên khi không chỉ gia đình ông Điểu Brăng mà nhiều hộ khác cũng được tiếp sức.
Cũng tại xã Phú Trung, gia đình ông Trần Ngọc Minh ở thôn Phú Tâm là một trong những hộ được hưởng lợi từ chính sách ý nghĩa này. Với hai người con đang là sinh viên tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Văn Hiến, nỗi lo về tài chính từng là gánh nặng lớn. Ông Minh xúc động chia sẻ, gia đình gặp nhiều khó khăn nên khi các con đi học, ông rất lo lắng không biết có thể lo đủ chi phí hay không. Nhờ có nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Phú Riềng, gia đình ông đã có thể làm hồ sơ cho hai con vay mỗi suất 40 triệu đồng. Nhờ vậy, các con ông đã có thể tiếp tục học hành.

Người dân nhận tiền vay vốn sinh viên từ Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Phú Riềng, tỉnh Đồng Nai.
Cùng chung niềm vui, gia đình bà Lê Thị Hương, cũng thuộc diện hộ khó khăn ở thôn Phú Tâm, bày tỏ sự biết ơn khi được vay vốn để con theo học đại học. Theo bà Lê Thị Hương, tháng vừa rồi, gia đình bà mới làm hồ sơ cho con vay được 120 triệu đồng. Nhờ có nguồn vốn này, người con có thể yên tâm vào đại học mà không phải lo lắng về chi phí. Lãi suất thấp, thủ tục lại nhanh gọn, điều này thực sự giúp đỡ gia đình bà Hương rất nhiều. Con vào đại học là niềm tự hào lớn, giờ đây cả nhà đã an tâm hơn để cháu được chuyên tâm học hành, thực hiện ước mơ của mình.
Sự thành công của chương trình không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và chính quyền địa phương. Bà Phạm Thị Phông, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Trung, cho biết, Chính quyền địa phương đã phối hợp chặt chẽ với Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội để rà soát, xác nhận đúng đối tượng, đảm bảo các hộ nghèo, cận nghèo, hộ dân tộc thiểu số, hộ có hoàn cảnh khó khăn có con em học đại học, cao đẳng đều được tiếp cận nguồn vốn này một cách sớm và kịp thời.
Những hỗ trợ kịp thời từ chính quyền và ngân hàng đã mang lại niềm vui lớn cho các hộ gia đình ngay đầu năm học mới. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ giúp các em học sinh, sinh viên tiếp tục con đường học vấn để hướng tới tương lai mà còn góp phần phát triển kinh tế gia đình và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước.
Ông Nguyễn Minh Tú, Phó Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Phú Riềng, nhấn mạnh rằng hoạt động giải ngân cho vay học sinh - sinh viên đang được triển khai khẩn trương và hiệu quả tại địa bàn xã Bình Tân, Long Hà, Phú Riềng và Phú Trung. Chương trình đã được triển khai nhiều năm qua và đã giúp rất nhiều em sinh viên hiện thực hóa giấc mơ tri thức của mình. Thủ tục vay vốn đơn giản, giải ngân kịp thời đã giúp nhiều sinh viên an tâm bước vào giảng đường, không còn nỗi lo về tài chính.
Nguồn vốn vay ưu đãi không chỉ là giải pháp tài chính mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đây là lời khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ học sinh, sinh viên nào bị bỏ lại phía sau vì hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay, Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Phú Riềng đã hỗ trợ vay vốn cho 1.517 sinh viên với tổng số tiền giải ngân lên tới 78.344 triệu đồng; trong đó 109 hộ dân tộc thiểu số.
Nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội đã trở thành một điểm tựa vững chắc, chắp cánh ước mơ con chữ cho học sinh, sinh viên nghèo ở tỉnh Đồng Nai. Đây không chỉ là sự hỗ trợ tài chính kịp thời mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ rằng giáo dục là quyền của mọi người, không ai bị bỏ lại phía sau vì khó khăn kinh tế. Nhờ có nguồn vốn này, các em đã có thể an tâm học tập, chắp cánh ước mơ con chữ và vun đắp tương lai tươi sáng, góp phần xây dựng nguồn nhân lực phát triển quê hương, đất nước./.
Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.
Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.
Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.
Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.
Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).
Ở: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.
Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.
Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.
Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...
Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.
Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".
Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.
Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.
Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.
Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.
Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.
Theo cema.gov.vn
