Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh (thầy Mo, dân tộc Mường, tỉnh Phú Thọ) cho biết: Chiêng Mường được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Chiêng gắn liền với mọi lễ nghi của người Mường. Sau thời khắc giao thừa, người ta sẽ đánh ba hồi chín tiếng để cầu bình an. Một chiếc được gọi là đánh chiêng, từ 6 đến 12 chiếc trở lên là Xắc bùa.
Theo ông Bùi Văn Minh, một bộ Xắc bùa có 12 chiếc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, xua đuổi điều xấu. Đầu năm, người dân ra đồng đánh chiêng để cầu mùa màng tốt tươi, súc vật sinh sôi, con người mạnh khỏe, gia đình hạnh phúc. Từ lúc sinh ra đến lúc già, chiêng luôn đồng hành với đời người Mường... thậm chí khi trở về với Mường Ma, chiêng vẫn vang lên để đưa tiễn.
Chiêng theo bước chân Phường Xắc bùa mang may mắn đến từng nếp nhà mỗi độ đầu xuân; chiêng chúc phúc cho đôi lứa trong ngày cưới; chiêng thành kính tiễn đưa linh hồn người đã khuất; chiêng giục giã hội Xuống đồng, mời gọi cộng đồng quây quần trong lễ Cơm mới, xua tan những điều dữ và gửi gắm ước vọng ấm no, yên bình… Bao đời nay, chiêng được truyền qua nhiều thế hệ, trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần người Mường.
Không gian văn hóa cồng chiêng của đồng bào dân tộc Mường bắt nguồn từ truyền thống lâu đời, được bồi đắp qua quá trình lao động, sáng tạo nghệ thuật và tiếp nối qua nhiều thế hệ. Người Mường xưa đã “thổi hồn” vào cồng chiêng, sáng tạo nên những giai điệu mang đậm bản sắc dân tộc trên nền văn minh nương rẫy kết hợp với văn minh lúa nước; lấy âm thanh từ núi đá, hang động và thạch nhũ làm điểm khởi nguyên.
Khi hiện diện trong đời sống cộng đồng, cồng chiêng trở thành nhạc khí bình dân, thuộc sở hữu chung và được sử dụng trong mọi nghi lễ quan trọng. Một bộ cồng chiêng của người Mường gồm 12 chiếc, chia thành ba bộ: Chiêng dàm, chiêng bồng, chiêng tlé; xuất hiện trong 24 lễ hội như lễ mừng nhà mới, thành hôn, Lễ hội Khai Hạ, hội Xuống đồng…
Theo Điều 4 của Luật Di sản năm 2014: "Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan".
Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh chia sẻ, trong những năm qua, ông đã đi rất nhiều nơi, nỗ lực tập hợp các thầy Mo và vận động mọi người cùng gìn giữ và truyền dạy văn hoá Mường.
“Có điều kiện, tôi lại mua chiêng để tặng. Vào các ngày thứ Bảy, Chủ nhật, tôi đến trường dạy chiêng cho học sinh; dạy các em về chiêng Mường, về phong tục, tập quán… để các cháu thêm hiểu và yêu văn hoá dân tộc mình. Tôi từng vào tận Lâm Đồng, Bảo Lộc, Đắk Lắk và từ tặng 3 đến 6 chiếc chiêng cho mỗi làng. Ở Phú Thọ, làng nào có nhà văn hóa, tôi cũng cố gắng gửi tặng từ 1 đến 3 chiếc để góp phần bảo tồn di sản”, Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh nói.
Với Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh, theo dòng chảy cuộc sống, nhiều thứ đã đổi thay, nhưng ông chỉ mong có thể quảng bá lại những nét đẹp trong văn hoá và lao động của người Mường: Từ cái cày, cái bừa, nếp nhà sàn, đến chiêng Mường, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; những cuốn sách, bộ lịch Rọi, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; hay Mo Mường, trường ca của người Mường, đang trình UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
“Chúng tôi rất tự hào khi được góp phần quảng bá văn hoá dân tộc và mong muốn kết hợp văn hóa với du lịch để phát triển mạnh mẽ hơn nữa giá trị truyền thống của thế hệ trước”, ông Bùi Văn Minh bộc bạch.
Theo Điều 15 của Luật Di sản Văn hoá:
1.Nghệ nhân, chủ thế di sản văn hóa phi vật thể duy trì thực hành, truyền dạy, giữ gìn giá trị của di sản văn hóa trong cộng đồng và lan tỏa di sản văn hóa đến cộng đồng khác trong xã hội.
2.Nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể tổ chức các hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể ở phạm vi trong và ngoài cộng đồng nhằm củng cố, tăng số lượng, chất lượng thực hành di sản văn hóa phi vật thể, ưu tiên các di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số, dân tộc thiểu số rất ít người để bảo đảm di sản văn hóa được duy trì thực hành thường xuyên, liên tục, đúng với giá trị, bản chất và chức năng của di sản văn hóa; giảm nguy cơ mai một, thất truyền thông qua các hình thức sau đây:
a) Nghệ nhân, người thực hành truyền dạy tri thức, kỹ năng và biểu đạt văn hóa cho thế hệ kế cận trong cộng đồng chủ thể thông qua thực hành di sản văn hóa phi vật thể;
b) Nghệ nhân, người thực hành truyền dạy tri thức, kỹ năng và biểu đạt văn hóa cho cộng đồng khác thông qua đào tạo có chủ đích.
Từ những thanh âm vang vọng giữa núi rừng đến nhịp sống hôm nay, cồng chiêng Mường vẫn bền bỉ gìn giữ linh hồn văn hóa của một tộc người giàu bản sắc. Trong dòng chảy đổi thay của cuộc sống hiện đại, tiếng chiêng Mường không chỉ là âm thanh của quá khứ, mà còn là lời nhắc nhớ, là mạch nguồn để cộng đồng tự hào, gìn giữ và lan tỏa những giá trị truyền thống. Để mỗi lần chiêng cất tiếng, người Mường lại thêm một lần thấy mình trong đó thấy cả cội nguồn, bản sắc và khát vọng đưa di sản vươn xa.
Một số hình ảnh khác:
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.