Kỹ thuật nuôi cá chép

Kỹ thuật nuôi cá chép
1. Nuôi cá chép với các loài cá khác

Chọn ao nuôi 

Như các ao nuôi cá khác, điều kiện cho ao để nuôi cá chép là đất không bị chua mặn, gần nguồn nước sạch, không có mạch nước ngầm độc hại gây chết cá. Ao nên đào theo hình chữ nhật (chiều dài gấp rưỡi hoặc gấp 2 chiều rộng) gần chuồng trại chăn nuôi, gần gia đình để tiện quản lý, gần đường giao thông để dễ vận chuyển cá giống và bán cá khi thu hoạch. Môi trường ao nuôi cá luôn thoáng sạch, không bị ô nhiễm, nhiệt độ nước dao động khoảng 20-30 độ C, nước ao luôn có màu xanh nõn chuối (độ trong từ 10-20 cm), độ ph từ 6,5-8,5, oxy từ 3-8 mg/l, cò từ 3-10mg/l, nước ao không được có H2S, hàm lượng NH4 nhỏ hơn 1mg/l, hàm lượng sắt tổng cộng không vượt quá 0,2 mg/l, põ khoảng 0,5mg/l và hàm lượng hữu cơ từ 10-20mgo2/l.

Cá chép - Cyprinus carpio
Cá chép - Cyprinus carpio

Chuẩn bị ao nuôi cá 

Trước khi nuôi cá, phải chuẩn bị ao theo các bước sau:

- Tu sửa bờ ao, kiểm tra đăng cống, phát quang bờ.

- Tát hoặc tháo cạn ao, dọn sạch bèo, cỏ, vét bùn (nếu lượng bùn quá nhiều), san phẳng đáy, lấp hết hang hốc ven bờ ao.

- Tẩy vôi khắp đáy ao, để diẹt cá tạp và mầm bệnh, bầng cách rải đều từ 8-10 kg vôi bột cho 100m2 đáy ao. Nếu trong ao nuôi vụ trước, cá tôm bị bệnh hoặc ao bị chua thì lượng vôi tẩy ao tăng gấp 2 lần (từ 15-20kg/100m2).

- Phơi ao khoảng 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao 30-40 kg phân chuồng đã ủ kỹ và 40-50 kg lá xanh (lá thân mềm để làm phân xanh) cho 100 m2. Lá xanh được băm nhỏ rải đều khắp đáy ao. Dùng trâu bừa đáy ao 1-2 lượt cho phân xanh và lá lẫn vào bùn đồng thời lấp phẳng đáy ao.

- Lọc nước vào ao khoảng 0,5 m, ngâm ao từ 5-7 ngày nước ao sẽ có màu xanh nõn chuối (màu của phù du sinh vật), lọc nước tiếp vào ao đạt mức sâu 1 m trước khi thả cá. Càn lọc nước bằng đăng hoặc lưới đề phòng cá dữ, cá tạp tràn vào ao nuôi cá.

Tỷ lệ cá chép nuôi ghép tuỳ thuộc vào qui trình cua loài nào là đối tượng chính

+ Nuôi ghép cá chép tronh ao lấy các đối tượng khác là chính thì nên thả cá chép từ 5-10% và phải tính sao cho mỗi con cá chép có khoảng 10-20m2 đáy ao.

+ Nuôi cá chép trong các đầm hồ tự nhiên lấy các đối tượng khác là chính có thể cá chép tới 20-30% nhưng vẫn phải tính toán sao cho mỗi con cá chép không ít hơn 20-30 m2 đáy đầm hồ.

+ Nuôi ghép cá chép ở ruộng trũng có thể thả với tỷ lệ 50-60% là cá chép nhưng cũng phải tính sao cho mỗi con cá chép có từ 10-15 m2 ruộng.

- Mùa vụ thả cá giống: Có 2 mùa vụ thả cá giộng nuôi thành cá thịt. Vụ 1 từ tháng 2 đến tháng 3 (gọi là vụ xuân) và vụ 2 từ tháng 8 đến tháng 9 (gọi là vụ thu). Mùa vụ thả cá giống thích hợp nhất lá vụ 1, vì thả sớm vào vụ xuân sẽ tận dụng được nhiều thời gian sinh trưởng cảu các loài cá. Người ta thường thả cá giống lưu và thả đủ số lượng cá xuống ao trong khoảng 5-7 ngày đầu, không nên kéo dài thời gian thả cá giống trong cùng một ao.

Xử lý cá giống trước khi thả nuôi

- Dùng cá thử nước: cắm giai hay rổ thưa xuống ao, thả vào trong đó 10-15 con cá giống. Theo dõi cá từ 20-30 phút thấy cá hoạt động bình thường là được, nếu thấy cá yếu hoặc chết… thì phải tạm ngưng việc thả cá để giải quyết lại nguồn nước đã lấy vào ao. Trước khi thả cá lại ao cũng phải dùng cá để thử nước.

- Tắm cho cá giống đề phòng bệnh: cá giống khi vận chuyển về, trước khi thả, nên tắm qua nước muối ăn (NaCl) nồng độ 3%. Cách tắm: Dùng chậu chứa 10 lit nước sạch, hoà tan 300g muối ăn trong nước, dùng vợt bắt cá để tắm trong thời gian từ 10-15 phút.

- Tránh để cá bị “sốc” do chênh lệch nhiệt độ giữa nước ao và nước chứa cá: khi thả cá xuống ao nuôi, để đảm bảo an toàn cho cá, cần chú ý cân bằng nhiệt độ nước giữa 2 môi trường, nhất là cá giống vận chuyển đường xa trong mùa hè có nhiệt độ cao. Cách làm: ngâm túi cá xuống ao từ 5-10 phút trước khi thả. Thả cá: mở dây buộc túi, hai tay ấn dìm một nửa miệng túi xuống nước, cho nước ngoài ao từ từ vào túi, khi thấy cá khoẻ, bơi ngược dòng nước thì thả cá ra ao. Chú ý thả cá ở đầu gió cho cá phân tán nhanh ra ao.

Chất lượng và quy cỡ cá giống:

- Chất lượng cá giống: cá khoẻ mạnh, bơi lội hoạt bát theo đàn, phản xạ nhanh với tiếng động. Khi vớt lên cá quẫy lộn lung tung, toàn thân trơn bóng, không rách vây, không tróc vảy, không khô mình, không mất nhớt, không bệnh.

- Quy cỡ cá giống: tuỳ theo từng loài cá, điều kiện ao nuôi và thời gian nuôi. Đối với ao nhỏ, dể quản lý chăm sóc, thời gian nuôi dài thì thả giống nhỏ. Ao rộng khó chăm sóc quản lý hoặc nuôi trong thời gian ngắn thì thả cá giống lớn.

2. Nuôi đơn cá chép trong ao

Ao nuôi

Điều kiện ao và cách chuẩn bị ao nuôi đơn cá chép tương tự như ao nuôi ghép cá chép. Diện tích ao nuôi thích hợp là từ 1.000-2.000 m2 tới 2-3 ha.

Mật độ thả

Tuỳ theo cỡ cá cần đạt lúc thu hoạch để định mật độ cá cho phù hợp. Muốn đạt khối lượng cá thịt lúc thu hoạch trong bình 0,3-0,4 kg/con sau 6-8 tháng nuôi, thì có thể thả cá giống với mật độ 1 con/1,5-2 m2 ao.

Muốn đạt cỡ cá thịt lớn hơn, trung bình 0,7-0,8 kg/con lúc thu hoạch thì nên thả mật độ 1 con/3-4 m2 ao.

Trong ao nuôi đơn cá chép, có thể thả ghép thêm trắm cỏ (mật độ 1 con/200 m2) và cá mè trắng mật độ (1 con/100 m2 ao); không thả thêm các loài cá khác.

Chất lượng và quy cỡ cá giống thả trong ao nuôi đơn tương tự như ao nuôi ghép.

3. Quản lý chăm sóc

-Thức ăn cho cá trong ao nuôi ghép: tuỳ theo cơ cấu thành phần đàn cá nuôi trong ao và năng suất đạt được, thức ăn bổ sung trong ngày bằng 2-3% khối lượng cá trong ao. Thức ăn bổ sung bao gồm:các chất bột ngũ cốc (cám gạo, bột ngô, bột đậu tương, bột sắn…) từ 70-80% và bột cá, bột tôm, cua, ốc, nhái, giun đất, phế thải lò mổ… từ 20-30%. Thức ăn bỗ sung tự chế được trộn đều các thành phần và nấu chín, đùn viên dạng sợi hoặc nắm rải ven ao cho cá ăn, ngày 2 lần sáng và chiều tối. Lượng thức ăn tối thiểu cần đầu tư tham khảo ở bảng 1.

Bảng 1: Thức ăn trong ao nuôi ghép cá chép
 
Năng suất cá (tấn/ha/năm)  Thức ăn xanh (tấn/ha/năm) Thức ăn tinh (tấn/ha/năm)
2-3
3-5
Trên 5
30-40
40-50
Trên 50
2-3
3-5
Trên 5
-Thức ăn cho cá trong ao nuôi đơn: hàng ngày phải cho cá ăn thức ăn bổ sung gồm các loại:

Bột ngô, cám gạo: 70-80%

Đậu tương: 10-15%

Khô dầu, bã mắm: 5-10%

Bột cá nhạt: 3-5%

Tất cả nguyên liệu này được nghiền nhỏ trộn đều. Nếu có điều kiện làm thức ăn viên thì thay 10% cám gạo bằng chất kết dính như bột sắn, bột mì…

Nếu không có điều kiện làm thức ăn viên thì sau khi trộn đều, cho nước vào nhào nắm thành từng nắm nhỏ cho cá ăn ngay. Phải cho thức ăn vào các sàn ănđặt cách đáy ao 10-20cm.

Lượng thức ăn hằng ngày được tính (gần đúng) như sau:

Trong tháng thứ 1-2 là 7-10% khối lượng cá trong ao.

Trong tháng thứ 3-4 là 5% khối lượng cá trong ao.

Trong các tháng sau là 2-5% khối lượng cá trong ao.

Tuy nhiên trước khi cho cá ăn cần kiểm tra sàn thức ăn để xem cá có sử dụng hết thức ăn hay không.

Cần định kỳ mỗi tháng kiểm tra sinh trưởng và bệnh cá một lần, cân khối lượng cá của 25-30 để tính khối lượng cá trong ao, qua đó ta điều chỉnhlượng thức ăn cho phù hợp.

-Bón phân cho ao nuôi cá: ao nuôi ghép hay nuôi đơn cá chép nếu không có kết hợp chăn nuôi thì phải dung phân chuồng, phân xanh bón cho ao, mỗi tuần bón 1 lần, mỗi loại từ 10-15kg/100m2 ao/tuần. Nếu ao nuôi cá có kết hợp chăn nuôi gia súc , gia cầm theo tt3 lệ cân đối dưới đây thì không phải bón phân choao nuôi cá.

Nuôi kết hợp cá - lợn: là hình thức nuôi rất phổ biến

- Nếu nuôi lợn quy mô nhỏ (1-2 lợn), chuồng nuôi lợn có thể làm trên bờ hoặc trên mặt ao.

Nếu  nuôi quy mô lớn: chuồng trại phải nuôi ở nơi riêng. Các chất thải của lợn cần phải được chứa vào nơi riêng, ủ trước khi đem sử dụng.

Lượng phân lợn 100kg lợn hơi/ 1 ngày = 5,1kg tương đương 0,34kg cá.

1 năm nuôi 2 vòng, trọng lượng xuất chuồng 100kg/con có thể thải ra một lượng phân 900kg tương đương 60kg cá các loại, bình quân 15kg phân lợn nguyên chất cho 1 kg cá.

Ví dụ: nuôi 1 ha cá đạt năng suất 2 tấn/ha; số lợn cần nuôi là:

2.000kg *15kg/900kg = 33 con lợn/ha tương đương là 0,3 lợn/100m2.

Các loại cá nuôi trong mô hình nuôi ghép cá-lợn: nuôi ghép cá với các loại cá trôi, rô phi, mè làm chính.

Nuôi kết hợp cá – vịt: là hình thức kết hợp tốt, 2 loại có tác dụng tương hỗ lẫn nhau.

+Ao: cung cấp không gian hoạt động, thức ăn bổ sung cho vịt.

+Vịt: Bơi lội làm tăng oxy cho ao.

Khuấy đảo chất màu, chất thải của vịt làm thức ăn cho cá.

Diệt những động vật ăn tranh thức ăn của cá làm tăng năng suất cá nuôi.

Cách nuôi:

Quy mô nhỏ: chuồng vịt trên mặt ao, hoặc cạnh bờ ao.

Nuôi quy mô lớn: làm chuồng trại riêng trong đó có nơi cho vịt tắm, bơi lội, sàn cho ăn,bể chứa và xử lý chất thải. Dùng chất thải đã xử lý bón cho ao nuôi cá.

Lượng chất thải do 1kg vịt = 76-96gam/ngày.

27,3kg đến 34,5kg/năm = 3,6 đến 4,3kg cá thịt.

Nuôi cá thịt đạt 2 tấn /ha cần:

2000kg/3,6kg = 560 vịt nuôi quanh năm

Vịt có thể ăn cá con do đó trong ao nuôi kết hợp cá- vịt cần phải thả cá giống lớn, nước ao sâu trên 60cm.

Công thức thả cá: cá chép nuôi ghép mè, trôi, rô phi làm chính.

Nuôi kết hợp cá- gà: gà là loại gia cầm nuôi phổ biến, nuôi kết hợp gà-cá đang phát triển.

Cá đối với gà: ao tạo không gian thoáng mát, giảm được công quản lý, chăm sóc.

Gà đối với cá: gà cung cấp phân bón, thức ăn rơi vãi( 10-15%), giảm được cong vận chuyển, nơi chứa đựng thức ăn.

Cách nuôi:

Chuồng gà thường được làm trên bờ hoặc trên mặt ao, nuôi gà lấy trứng hoặc gà thịt.

Lượng phân thải ra của 100kg gà thịt = 6,6kg/ngày = 0,5 đến 0,6kg cá thịt.

Để nuôi 1ha cá ao đạt 2 tấn/ha cần 1500 đến 2000 con gà.

100m2 cần 15-20 gà thịt hoặc gà trứng nuôi quanh năm.

Các loại cá dùng trong nuôi kết hợp gà-cá: những loài cá có sức chịu đựng tốt, thường nuôi ghép: cá chép, trê lai, tra, rô phi, rô hu.

-Bổ sung nước mới vào ao nuôi cá: để ổn định mức nước trong ao nuôi cá, sau 3-4 ngày phải thêm nước mớivào ao khoảng 20-30cm. Những ao có điều kiện tưới tiêu chủ động mỗi tháng 1 lần, có thể rút 1/3 nước cũ ở đáy ao, trước khi thêm nước mới.

-Biện pháp quản lý ao nuôi cá: hàng ngày phải thăm ao 2 lần sáng sớm và chiều tối, để phát hiện các hiện tượng có ảnh hưởng đến ao cá như: hiện tượng cá nổi đầu, nước ao bạc màu, đăng cống hư hỏng, cá bị đánh trộm v.v… người quản lý ao phải nắm vững màu nước ao thay đổi, tình trạng hoạt động của cá trong ao: cá no, cá đói, sức lớn của cá, bệnh tật, nước ao thiếu oxy, nước ao cạn, theo dõi thời tiết,.. Để điều chỉnh kế hoạch chăm sóc và xử lý kịp thời các tình huống có ảnh hưởng xấu đến ao nuôi cá. Ví dụ:

Thấy trên sàn ăn còn thừa thức ăn là cá no, phải rút bớt khẩu phần ăn.

Thấy trên sàn ăn hết thức ăn, nước ao đục ngầu, là cá đói phải tăng thêm thức ăn.

Nước ao giàu dinh dưỡng, có màu xanh lá chuối non.

Cá nổi đầu bình thường: vào buổi sáng cá nổi thành từng đán, bơi lội thoải mái, phản ứng nhanh với tiếng động, cá lặn hết khi mặt trời mọc.

Cá nổi đầu do ao thiếu oxy hoặc bị bệnh: cá bơi lội dáng mệt mỏi, bơi lẻ tẻ mỗi con một hướng, không bơi theo đàn, ven bờ ao có tôm tép chết dạt… khi mặt trời mọc lâu, cá vẫn chưa lặn. Cần phải cấp cứu: ngừng hẳn bón phân,ngừng cho cá ăn, bơm ngay nước mới vào ao, vớt hết cỏ rác, xác lá dầm, rau bèo, … té nước trên mặt ao hoặc dùng lưới không có chì kéo dồn cá về khu vực có nước mới đang chảy vào ao.

Giữ mức nước ao từ 1,5-2m để chống nóng và chống rét cho cá. Có thể thả bèo, rau muống rộng 1-2m, ngăn ô quanh bờ ao.

Kiểm tra ao đột xuất khi có mưa to, gió lớn, bão giông..

Chống các loại dịch hại bắt cá như:rái cá, rắn nước, chim bắt cá,…

Phòng tránh các hình thức đánh trộm cá.
Theo tepbac.com

Có thể bạn quan tâm

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.

Nguy kịch do ăn nấm mọc trên nhộng ve sầu

Nguy kịch do ăn nấm mọc trên nhộng ve sầu

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai cho biết đang tích cực điều trị cho anh Rlan Hùng (sinh năm 1993, trú tại xã Ia Dơk, huyện Đức Cơ), bệnh nhân bị ngộ độc do ăn nấm mọc trên nhộng ve sầu, do nhầm tưởng là “đông trùng hạ thảo”.

Tạo chuyển biến mạnh mẽ về bình đẳng giới cho đồng bào vùng cao

Tạo chuyển biến mạnh mẽ về bình đẳng giới cho đồng bào vùng cao

Triển khai Dự án 8 "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em" thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Cao Bằng đã đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông về bình đẳng giới nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ nhận thức cho người dân trong giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Khuyến nghị phòng bệnh cho tôm nuôi khi nắng nóng mưa xen kẽ

Khuyến nghị phòng bệnh cho tôm nuôi khi nắng nóng mưa xen kẽ

Sóc Trăng là tỉnh có sản lượng tôm xuất khẩu hàng đầu cả nước. Để bảo vệ diện tích tôm nuôi trước diễn biến thời tiết nắng nóng, mưa xen kẽ như hiện nay, ngành chuyên môn tỉnh Sóc Trăng đang đẩy mạnh nhiều giải pháp, nhằm giúp hộ nuôi đạt hiệu quả cao trong vụ tôm nuôi 2025.

Khuyến cáo nông dân tăng kiểm tra đồng ruộng, phòng trừ sâu bệnh hại lúa

Khuyến cáo nông dân tăng kiểm tra đồng ruộng, phòng trừ sâu bệnh hại lúa

Theo ông Vũ Thanh Quỳnh, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội, dự báo thời gian tới, một số sinh vật gây hại như chuột, bệnh đạo ôn cổ bông, bọ rầy, bệnh khô vằn, bệnh đốm sọc vi khuẩn - bạc lá trên cây lúa; sâu đục bắp, bệnh đốm lá trên cây ngô; bọ nhảy, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ, rệp trên cây rau... sẽ tiếp tục gây hại mạnh. Để hoàn thành thắng lợi vụ Xuân, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội khuyến cáo các địa phương cùng nông dân chủ động bám sát đồng ruộng, có biện pháp phòng chống sâu bệnh kết hợp với chăm sóc tốt lúa, rau màu...

Thạch đen Cao Bằng – Hương vị mát lành của núi rừng

Thạch đen Cao Bằng – Hương vị mát lành của núi rừng

Giữa không gian hùng vĩ của núi rừng Đông Bắc, tỉnh Cao Bằng không chỉ nổi bật bởi cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, mà còn ghi dấu trong lòng du khách bởi những đặc sản dân dã, đậm đà bản sắc. Một trong số đó chính là thạch đen Cao Bằng – món ăn giản dị nhưng chất chứa tinh hoa của đất trời và bàn tay người bản địa.

Nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng phó với thiên tai cho học sinh

Nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng phó với thiên tai cho học sinh

Sáng 13/5, Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai phối hợp với Sở Nông Nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bát Xát và Công ty cổ phần Acecook Việt Nam tổ chức vòng Chung khảo cuộc thi Rung chuông vàng “Cùng em phòng chống thiên tai - Kiến tạo tương lai bền vững” tại trường Trung học cơ sở thị trấn Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Vụ thứ 3 liên tiếp, Trà Vinh tham gia đề án trồng lúa chất lượng cao, phát thải thấp

Vụ thứ 3 liên tiếp, Trà Vinh tham gia đề án trồng lúa chất lượng cao, phát thải thấp

Vụ lúa Hè Thu 2025, tỉnh Trà Vinh có 37 hợp tác xã đăng ký trồng lúa chất lượng cao, giảm phát thải theo Đề án "Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" trên tổng diện tích hơn 5.121 ha. Đây là vụ sản xuất thứ 3 liên tiếp tỉnh Trà Vinh tham gia đề án và cả 3 vụ đều mang lại hiệu quả cao cho nông dân.

Tỷ lệ tiêm vaccine cho đàn vật nuôi vẫn thấp

Tỷ lệ tiêm vaccine cho đàn vật nuôi vẫn thấp

Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Trà Vinh đang chỉ đạo đơn vị chuyên môn cùng phòng Nông nghiệp và Môi trường các huyện phối hợp chính quyền địa phương tăng cường hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc đàn vật nuôi cho nông hộ; tập trung thực hiện tiêm vaccine phòng bệnh cho đàn gia súc, gia cầm trong mùa khô.

Cô gái Dao xây dựng thương hiệu chè Shan Tuyết dưới dải Tây Côn Lĩnh

Cô gái Dao xây dựng thương hiệu chè Shan Tuyết dưới dải Tây Côn Lĩnh

Những ngày đầu tháng 5, trong sắc xanh bạt ngàn của rừng núi Hà Giang, cây chè Shan Tuyết cổ thụ vươn mình kiêu hãnh giữa mây trời Tây Côn Lĩnh. Và giữa vùng đất ấy, cô gái người Dao Bàn Thị Hom đang từng ngày viết nên câu chuyện khởi nghiệp đầy cảm hứng từ chính loại trà trứ danh của quê hương mình.

Vũ Thị Thủy - Người giữ thương hiệu cho Cam Cao Phong và các sản phẩm từ cam

Vũ Thị Thủy - Người giữ thương hiệu cho Cam Cao Phong và các sản phẩm từ cam

Hòa Bình nổi tiếng với thương hiệu Cam Cao Phong và huyện Cao Phong có những đồi cam trù phú trải dài cùng thiên nhiên tươi đẹp. Cũng tại vùng đất cam này, chị Vũ Thị Thủy, Giám đốc Hợp tác xã 3T Farm nổi lên là một tấm gương nông dân tiêu biểu với một hành trình kiên trì, sáng tạo vượt khó với khát vọng mãnh liệt làm nông nghiệp sạch từng bước đưa thương hiệu Cam Cao Phong và các sản phẩm từ cam chinh phục thị trường trong nước, đặt nền móng cho một mô hình nông nghiệp hữu cơ bền vững, hiện đại.

Gia tăng giá trị và thương hiệu sản phẩm OCOP

Gia tăng giá trị và thương hiệu sản phẩm OCOP

Tận dụng các nền tảng mạng xã hội, thời gian qua, nhiều nông dân Hưng Yên đã mạnh dạn chuyển đổi phương thức tiếp thị, giới thiệu sản phẩm nông sản. Điều này không chỉ tiếp cận thị trường rộng, giúp tiêu thụ nông sản bền vững mà còn giảm chi phí, hình thành một phương thức tiêu thụ mới phù hợp với thực tế hiện nay.

Cao nguyên Mộc Châu vào vụ chè xuân

Cao nguyên Mộc Châu vào vụ chè xuân

Sau một kỳ nghỉ đông, thời điểm này, cao nguyên Mộc Châu (tỉnh Sơn La) đang khoác lên mình tấm áo mới xanh non của những đồi chè rộng bát ngát. Đây là vụ chè xuân quan trọng và được mong đợi nhất trong năm của người trồng chè.

Chè Shan tuyết trăm năm tuổi vào vụ giữa đại ngàn Tây Côn Lĩnh

Chè Shan tuyết trăm năm tuổi vào vụ giữa đại ngàn Tây Côn Lĩnh

Những ngày cuối tháng 4, trên đỉnh Tây Côn Lĩnh (Hà Giang), hàng ngàn cây chè Shan tuyết cổ thụ trăm năm tuổi vào vụ xuân. Đây cũng là lúc người dân vùng núi Hà Giang tất bật đi thu hái chè. Chè Shan tuyết là đặc sản riêng có của Hà Giang, mang lại giá trị kinh tế cao, tạo sinh kế cho người dân vươn lên thoát nghèo.

Giá tăng, cơ hội để nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu tái canh cây cà phê

Giá tăng, cơ hội để nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu tái canh cây cà phê

Sau nhiều năm mất giá, người dân Bà Rịa-Vũng Tàu chặt bỏ cây cà phê. Thế nhưng, 2 năm trở lại đây giá cà phê đã tăng cao chóng mặt từ 60.000 đồng/kg (năm 2023) lên gần 130.000 đồng/kg. Gía tăng cao đã là cơ hội để người nông dân quay lại với loại cây trồng này.

Thời tiết bất lợi, vụ trái cây hè có nguy cơ giảm mạnh năng suất ở Bà Rịa-Vũng Tàu

Thời tiết bất lợi, vụ trái cây hè có nguy cơ giảm mạnh năng suất ở Bà Rịa-Vũng Tàu

Hiện nay, toàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có hơn 15 nghìn ha cây ăn trái, trong số này có gần 11.400 ha đang trong thời kỳ kinh doanh, sản lượng bình quân đạt gần 143 nghìn tấn. Trong số này, có đến hơn 80% diện tích cây ăn trái cho thu hoạch vào mùa hè như: sầu riêng, bơ, măng cụt, chôm chôm… Năm nay, do ảnh hưởng của thời tiết bất lợi - vào thời điểm cây ăn trái ra hoa gặp sương muối, mưa trái mùa nên tỷ lệ đậu trái thấp khiến sản lượng vụ này dự kiến giảm mạnh.

Đắk Glong nỗ lực thoát khỏi tình trạng huyện nghèo, đặc biệt khó khăn

Đắk Glong nỗ lực thoát khỏi tình trạng huyện nghèo, đặc biệt khó khăn

Với việc triển khai đồng bộ các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh gắn với công tác giảm nghèo bền vững, huyện Đắk Glong (tỉnh Đắk Nông) đã gặt hái được nhiều kết quả quan trọng và dự kiến sẽ thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn trong năm 2025.

Đồng Tháp: Tổng doanh thu của làng nghề, làng nghề truyền thống hơn 2.000 tỷ đồng/năm

Đồng Tháp: Tổng doanh thu của làng nghề, làng nghề truyền thống hơn 2.000 tỷ đồng/năm

Đến nay tỉnh Đồng Tháp hiện có 40 làng nghề truyền thống đã được công nhận theo quy định. Các sản phẩm khá đa dạng tập trung chủ yếu vào 3 nhóm chế biến và bảo quản nông, lâm thuỷ sản; sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh. Tổng doanh thu của làng nghề, làng nghề truyền thống hơn 2.000 tỷ đồng/năm, giải quyết việc làm cho hơn 8.600 lao động.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Thay đổi thói quen canh tác

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Thay đổi thói quen canh tác

Khởi động Đề án một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao từ cuối tháng 11/2024, đến nay, tại các địa phương tỉnh Long An, lúa trong vùng thực hiện Đề án mang lại hiệu quả khá cao so với canh tác truyền thống. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đề ra, việc thay đổi thói quen canh tác của người dân cần cả một tiến trình.

Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre có tổng diện tích nghêu quản lý và khai thác 1.500 ha với sản lượng khai thác đạt khoảng 2.000 tấn nghêu thịt. Ảnh: Công Trí-TTXVN

Phát triển nuôi nghêu xuất khẩu vùng ven biển

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bến Tre Đoàn Văn Đảnh, năm nay, thời tiết thuận lợi, nắng nóng và độ mặn cũng không gay gắt như năm trước nên nghêu nuôi ở các hợp tác xã trên địa bàn phát triển ổn định, không xảy ra hiện tượng nghêu chết như các năm trước.