Lễ hội Xuống đồng của người Mường được hình thành từ lâu đời, mang đặc trưng của cư dân trồng lúa nước. Với nét độc đáo, Lễ hội được tổ chức đã trở thành truyền thống tốt đẹp thu hút du khách gần xa.
Trong những lễ hội truyền thống tổ chức vào dịp đầu Xuân năm mới, Lễ hội Xuống đồng có một vị trí đặc biệt trong đời sống của đồng bào dân tộc Mường. Lễ hội Xuống đồng được tổ chức vào ngày mùng 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm tại Mường Vang, tỉnh Phú Thọ, với mong muốn cầu một năm mới may mắn, thịnh vượng, tỏ ước vọng của mình về một cuộc sống tốt đẹp, bình yên.
Lễ hội Xuống đồng, theo tiếng địa phương còn gọi là Lễ “Khuống mùa”. Hàng năm, trước khi bắt đầu một năm lao động, sản xuất, nhân dân trong vùng làm lễ tế Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị thần Thành hoàng để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhà nhà yên vui, xóm làng bình an và xin phép các vị thần Thành Hoàng được xuống đông để bắt đầu chu kỳ sản xuất mới.
Ngay từ sáng sớm, các mâm cỗ đã được chuẩn bị để đưa ra Miếu Thành Hoàng làng. Đi đầu là thầy Mo, sau là các bậc chức sắc, già làng trưởng bản, tiếp đến là đội bưng lễ, đội cầu kiệu, dàn chiêng “sắc bùa” cùng nhân dân trong làng.
Khi cỗ lễ đã bày biện xong, chức sắc già làng trưởng bản, bà con dân làng đã tề tựu đầy đủ, thầy Mo trong trang phục áo chùng, đầu đội mũ mo, tay cầm quạt thực hiện nghi thức Khấn: Thiêng liêng thiêng kháng/ Chắp tay tôi hầu, tôi lạy/ Năm cũ đã qua, bước sang mùa năm mới/ Hôm nay là ngày khai hạ ra đồng/ Trong quê, trong bản, trong lúng, trong làng/ Đã sắm mâm cỗ, nậm rượu, trâu màng, nang bùi/ Mo tôi vào mời Thành hoàng, thổ công trong Miếu/ Mời ngài ra giám minh chính quả cho Mường làm lễ khai hạ xuống đồng/ Để được mở xá cày đầu tiên/ Cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi/ Con trâu khoẻ mạnh, con người bình an.
Sau khi thực hiện xong nghi thức, thầy Mo xin quẻ âm dương. Sau khi gieo quẻ, được sự cho phép của các vị thần Thành Hoàng, nghi thức của lễ rước thánh bắt đầu. Theo hiệu lệnh của già làng, cả đoàn tiến ra khu vực trung tâm lễ hội. Đi đầu là đội cờ thần, tay cầm cờ, tiếp đó là thầy Mo và các bậc chức sắc, già làng trưởng bản, tiếp đến là đội cầu kiệu, dàn chiêng “sắc bùa” tốp nhạc cò ke ống sáo và dân làng đi theo trong hồi chiêng, trống cùng điệu nhạc đi đường, lưu thủy.
Khi đoàn rước ra đến khu ruộng trung tâm của Mường, thầy Mo thực hiện nghi thức xuống đồng: Đầu xuân năm mới/ Dân làng làm lễ mở xá cày đầu năm/ Mo tôi xin mời các Ngài về/ Để chứng kiến cho con dân đất Mường/ Được bước chân ra đồng bắt đầu một vụ mùa mới/ Để bênh hộ độ trì cho bản cho Mường/ Để đất nà mau tơi/ Để ruộng khơi thêm tốt/ Cho đồng Mường ta thêm bông lại vừa trắc lúa…
Sau lời khấn của thầy Mo, già làng ra hiệu lệnh thực hiện lễ thức mở xá cày đầu tiên. Để mở đầu cho một năm mới làm ăn thịnh vượng, thì Lễ thức mở xá cày đầu tiên không thể thiếu được. Đây là Lễ thức quan trọng nhất trong tiết Khai hạ Khuống mùa. Người được chọn mở xá cày đầu tiên phải là người làm ăn giỏi giang, tài đức, gia đình sung túc cùng con trâu to khoẻ để thực hiện nghi thức cày luống cày đầu tiên. Tiếp đó, trong niềm vui phấn khởi, bà con dân làng xuống đồng thực hiện nghi thức tưới những giọt nước đầu tiên, cùng nghi thức cấy mạ non, thả cá xuống đồng để bắt đầu một năm lao động, sản xuất mới.
Sau khi thực hiện Lễ thức mở xá cày đầu tiên, đoàn rước các vị thần quay trở lại Miếu thờ. Khi đoàn rước về lại Miếu an vị, thầy Mo tiếp tục bài khấn: Hôm nay được ngày lành tháng tốt/ Các thần đã ban cho dân Mường được giờ tốt làm lễ xuống đồng/ Quê Mường sắm đồ chay, đồ mặn để dâng lên các vị/ Mời các ngài về hưởng lộc và ban phúc/ Cho đất này rạng, cho làng này lành/ Để cầu cho dân Mường được an lành, no ấm.
Các nghi thức phần Lễ kết thúc, bản Mường bắt đầu vào hội xuống đồng. Thầy Mo thực hiện nghi thức Gọi Chiêng: “Dậy dậy chiêng hỡi, dậy dậy chiêng à/ Dậy từ nhà ba khoang bốn mái…”. Sau khi thầy Mo đánh xong hồi chiêng, cả dàn chiêng “sắc bùa” hòa tấu chiêng Mường để mở đầu cho phần hội.
Theo Điều 4 của Luật Di sản năm 2014: "Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan".
Trong ngày hội, màn hòa tấu sắc bùa là hoạt động không thể thiếu và đặc sắc nhất. Mỗi dàn chiêng “sắc bùa” được hòa tấu thành bản nhạc từ những bài cổ như: Đi đường, bông trắng bông vàng... cho đến những giai điệu mới được phường bùa thể hiện trong không gian lễ hội.
Trong hướng sắc của mùa Xuân, vò rượu cần được mở ra là lời mời chân thành, là nhịp cầu nối những con người xích lại gần nhau hơn. Bên cần rượu vít cong, hương men nồng nàn, vị ngọt của núi rừng hòa cùng nhịp chiêng, nhịp trống, sênh tiền vang xa… mọi người hân hoan, xum họp.
Trong lúc dân làng quây quần bên vò rượu cần, trên sân hội tưng bừng diễn ra các trò chơi, văn nghệ dân gian. Những cô gái Mường duyên dáng trong vũ điệu dâng bông, nhịp nhàng uyển chuyển cùng điệu múa sênh tiền, đâm xuống là những điệu múa cổ của dân tộc Mường gắn liền với tri thức dân gian của nền văn hóa lúa nước. Điệu múa dâng bông là điệu múa cổ có ý nghĩa: Bông cơm trái lúa những sản vật quý báu duy trì sự sống của con người được kính cẩn dâng lên trời đất tổ tiên thể hiện sự thành kính biết ơn của con cháu và cộng đồng.
Từ một vật dụng của đời sống nông nghiệp, chày và cối giã gạo đã trở thành một trò chơi của vũ đạo hình thể và âm thanh. Sự rộn ràng của đâm xuống gọi mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi không thể thiếu trong những dịp hội làng... Bên cạnh đó, sênh tiền là một loại nhạc cụ gõ của người Mường, từ đây các cô gái Mường đã sáng tạo ra những động tác đẹp, sinh động, đầy yếu tố của vũ đạo và được biểu diễn trong các lễ hội của người Mường.
Cùng với điệu múa của những cô gái Mường, trên sân hội trai tráng quây quần thi tài đẩy gậy, đè khà thì các trò chơi dân gian như ném còn, đánh mảng, cà kheo càng làm cho không khí ngày xuân thêm tưng bừng, náo nhiệt. Đẩy gậy là một trò chơi dân gian, vừa là môn thể thao truyền thống thể hiện sức mạnh của trai Mường. Trong vòng tròn, hai người, mỗi người một đầu gậy khom mình thủ thế chờ hiệu lệnh của trọng tài. Hiệu lệnh vang lên, cả hai cùng ra sức đẩy gậy về phía đối phương, ai đẩy bật được đối thủ ra khỏi vòng tròn sẽ dành phần thắng.
Cũng như đẩy gậy, đè khà là trò chơi dân gian đặc sắc. Đây là kiểu vật tự do, luật chơi đơn giản: Hai người ôm vòng lưng nhau, sau hiệu lệnh của trọng tài là cùng gồng sức, dùng chân gài đối phương ngã ngửa, hoặc nhấc bổng đối phương, hoặc đẩy đối phương khỏi sàn vật là thắng cuộc.
Trong hương sắc mùa xuân, trai gái hát đối giao duyên, những câu ví đối…, cửa vóng nhà sàn, đắm say nghiêng ngả trong ánh mắt trao tình. Trong lúc dân làng quây quần bên vò rượu cần, Thầy Mo buộc chỉ cổ tay để ban sức khỏe, may mắn cho dân làng. Xung quanh sân hội có các lán, trong đó rượu cần cỗ lá, ai đói thì vào lán ăn uống sau đó lại ra vui chơi cho đến tan hội.
Trong không gian của lễ hội, tất cả mọi người tay nắm tay cùng say đắm trong điệu xòe. Từ vòng xoe, con người gần gũi, chan hòa với nhau hơn để bước vào cuộc sống lao động trong không khí vui tươi của những ngày đầu năm mới.
Giữa nhịp sống hiện đại, âm vang chiêng Mường, điệu múa dâng bông, men rượu cần nồng ấm hay vòng xòe chan hòa vẫn ngân lên giá trị bền lâu của văn hóa bản địa. Mỗi mùa xuân, lễ hội lại được tái hiện như một lời nhắc nhở đầy tự hào về cội nguồn lúa nước, về nếp sống nghĩa tình, đoàn kết của người Mường. Và chính từ những lễ hội như thế, sắc xuân xứ Mường càng thêm rạng rỡ, hun đúc sức sống mới cho cả bản Mường trong hành trình dựng xây cuộc sống ấm no, trù phú.
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.