Người "giữ hồn" thổ cẩm ở vùng cao Yên Bái

Trong tín ngưỡng, văn hóa của đồng bào Mông, thổ cẩm truyền thống là hồn cốt dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong đời sống. Thổ cẩm gắn bó với mỗi cộng đồng trong suốt vòng đời, từ lúc sinh ra, lập gia đình và những lúc cuối đời. Với mong muốn gìn giữ, phát triển các sản phẩm thổ cẩm, nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh (xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải) đã kết nối, mang thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông vươn ra thế giới và trở thành người "giữ hồn" thổ cẩm dân tộc.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900228.jpg
Nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh trở thành người "giữ hồn" thổ cẩm Mông ở vùng cao Mù Cang Chải. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Thay đổi định kiến giới

Sinh ra trong một gia đình có 9 anh chị em tại bản Pú Nhu, xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, cô gái người Mông sinh năm 1990 Lý Thị Ninh sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông đã lấy chồng, rồi ở nhà sinh con tại bản Trống Tông, xã Chế Cu Nha.

Đều đặn ngày 2 buổi lên nương, tối về cơm nước, tranh thủ những phút rảnh, chị Ninh xe lanh, dệt vải, thêu váy áo. Có lẽ vì cuộc sống vất vả nên nhìn chị già dặn hơn nhiều so với tuổi. Cuộc sống trôi qua cùng ruộng nương, mưa nắng với thu nhập không có gì ngoài hạt lúa, bắp ngô, chị Ninh cảm thấy bản thân cần thay đổi để tốt hơn.

Chị Lý Thị Ninh chia sẻ, từ xưa, phụ nữ Mông không có tiếng nói trong gia đình và không được làm chủ kinh tế. Thấy cảnh chị em vất vả nhưng lại không dám nghĩ đến chi tiêu cho riêng mình, chị Ninh ấp ủ hy vọng một ngày nào đó chị sẽ làm thay đổi định kiến giới, để mỗi phụ nữ Mông cũng có thể kiếm thu nhập và làm chủ kinh tế gia đình.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900232.jpg
Nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh giúp vùng cao Mù Cang Chải thay đổi định kiến giới. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Cơ duyên đến với chị Ninh vào tháng 3/2009, đại diện Trung tâm Nghiên cứu, Liên kết và Phát triển thủ công mỹ nghệ (Craft Link) thấy phụ nữ Mông nơi đây mặc váy áo dân tộc thủ công rất đẹp, nên đã làm việc với Hội Phụ nữ huyện Mù Cang Chải thành lập một nhóm thêu dệt.

Sản phẩm được Trung tâm bao tiêu, bán ra trong, ngoài nước. Lúc này, chị Ninh nghĩ cơ hội đến với bản thân để khẳng định phụ nữ cũng làm chủ được kinh tế. Chị Ninh xin chồng và gia đình cho tham gia nhóm để có thêm thu nhập. Lúc đầu người thân chưa ủng hộ nhưng chị vẫn kiên trì giải thích sau đó cũng được đồng tình.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900229.jpg
Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style tạo thu nhập ổn định cho gần 50 phụ nữ tại huyện vùng cao Mù Cang Chải. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Đến cuối năm 2009, “Nhóm thổ cẩm Mông” được thành lập. Chị Ninh có kiến thức hơn nên được cử làm đại diện cho nhóm khi mới 19 tuổi. Từ đó, cô gái trẻ Lý Thị Ninh thay mặt nhóm nhận đơn hàng, mua nguyên vật liệu, chi trả cho chị em. Năm đầu, Trung tâm hỗ trợ nguyên vật liệu cho chị em làm, sau một năm có quỹ thì chị em tự chủ động làm.

Tạo thu nhập cho chị em

Để duy trì công việc thường xuyên cho chị em, ngoài đầu mối Trung tâm Craft Link, chị Lý Thị Ninh đã lăn lộn các nơi để tìm kiếm thêm thị trường.

Cứ cuối tuần, hai vợ chồng chị Ninh lại chất hàng hóa lên xe máy, rong ruổi các chợ Sa Pa (Lào Cai), Hà Giang và hội chợ ở Hà Nội để bày bán, giới thiệu sản phẩm. Ban đầu, mọi người chỉ xem chứ chưa ai đặt hàng, chị tiếp tục kiên trì tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác rồi có người đặt hàng.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900227.jpg
Nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh thêu tay các sản phẩm thổ cẩm của dân tộc. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Sản phẩm nhóm làm ra ngoài váy áo, trang phục nam giới còn có vỏ gối, túi, ví, khăn trải bàn, ba lô, con vật, móc treo chìa khóa, dây buộc tóc, túi đeo, hoa tai… Tất cả những sản phẩm trên được làm từ cây lanh trồng trên nương, qua bàn tay khéo léo và sự tỉ mẩn của phụ nữ Mông mà thành sợi lanh dệt vải.

"Nhóm thổ cẩm Mông ngày" càng lớn mạnh. Từ “Nhóm thổ cẩm Mông” ban đầu với 10 thành viên dần trở thành “Tổ sản xuất thổ cẩm”, rồi “Tổ hợp tác thổ cẩm truyền thống dân tộc Mông” và đến Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style với gần 50 thành viên trong huyện.

Hợp tác xã hiện có trụ sở tại bản Dề Thàng, xã Chế Cu Nha, sản phẩm có mặt ở thị trường Hà Nội, Lào Cai, Hà Giang và các nước Pháp, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ…

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900231.jpg
Trên mỗi sản phẩm thổ cẩm của Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style đều gắn mã QR để du khách và người tiêu dùng tìm kiếm thông tin. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Năm 2024, Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style thu về gần một tỷ đồng, trừ các khoản chi phí, chị em có thu nhập bình quân từ 3-5 triệu đồng/tháng. Con số này chưa lớn nhưng là điều mơ ước với phụ nữ Mông nơi đây.

Chị Hờ Thị Dê, thành viên Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style phấn khởi, từ khi tham gia vào Hợp tác xã, chị em có một khoản thu nhập riêng, có tiền mua đồ đạc, cho con ăn học và đặc biệt có thể tự “làm đẹp” cho mình. Cuộc sống tươi đẹp này nhờ vào công lớn của chị Lý Thị Ninh, người phụ nữ không chỉ giúp chị em có thu nhập mà còn giúp đồng bào bảo tồn giá trị văn hóa thổ cẩm.

Giữ gìn văn hóa thổ cẩm

Trong văn hóa đồng bào Mông, khi người con gái sinh ra sẽ được mẹ dạy cách thêu thùa. Chị Lý Thị Ninh cho biết, người Mông quan niệm, người con gái chỉ có giá khi biết thêu thùa, khâu vá. Do đó, nghề thêu dệt thổ cẩm từ lâu gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để tạo ra những sản phẩm thổ cẩm hay bộ trang phục độc đáo thì phải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của đôi bàn tay người phụ nữ Mông như trồng lanh, xe sợi, in sáp, nhuộm chàm và thêu thùa.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900825.jpg
Nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh (bên trái) giới thiệu các sản phẩm thổ cẩm của mình làm ra. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Hiện nay, nhiều mặt hàng của Trung Quốc được bày bán trong huyện với mẫu mã phong phú và giá thành rẻ, nguy cơ mai một nghề thổ cẩm truyền thống. Nhằm lưu giữ nghề thổ cẩm cho thế hệ mai sau, chị Ninh thường xuyên tuyên truyền, vận động chị em dạy cho con, cháu; đồng thời kết hợp với các trường học cho học sinh tập thêu. Hàng năm, có hàng trăm lượt học sinh đến Hợp tác xã trải nghiệm học thêu và tìm hiểu nghề thổ cẩm truyền thống dân tộc.

Trải qua gần 16 năm, chị Lý Thị Ninh trong mắt người dân Mù Cang Chải là bông hoa đẹp của bản Mông, người "giữ hồn" thổ cẩm truyền thống của đồng bào.

potal-nguoi-giu-hon-tho-cam-o-vung-cao-yen-bai-7900230.jpg
Bằng sự sáng tạo, nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh còn làm hoa tai bằng thổ cẩm. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Với những nỗ lực, năm 2022, chị Lý Thị Ninh được tặng danh hiệu Nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể loại hình tri thức nhân gian và nhận được nhiều Bằng khen của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Yên Bái và Giấy khen của huyện Mù Cang Chải.

Đánh giá về nghệ nhân Lý Thị Ninh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Mù Cang Chải Khang Thị Mào cho hay, Mù Cang Chải là huyện vùng cao của tỉnh với trên 90% đồng bào Mông sinh sống. Toàn huyện có trên 12.000 hội viên phụ nữ. Trong đó, chị Lý Thị Ninh là tấm gương phụ nữ người Mông tiêu biểu của huyện. Chị mạnh dạn đứng ra làm chủ kinh tế gia đình, góp phần làm thay đổi cuộc sống của phụ nữ trong bản. Chị còn sáng tạo hoa văn, truyền dạy nghề thổ cẩm truyền thống cho chị em các xã, thị trấn trong huyện và các tỉnh lân cận...

Đinh Thùy

(TTXVN)
Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Mông

Có thể bạn quan tâm

Những Bí thư chi bộ người dân tộc làm kinh tế giỏi nhờ thay đổi nếp nghĩ, cách làm ở Điện Biên

Những Bí thư chi bộ người dân tộc làm kinh tế giỏi nhờ thay đổi nếp nghĩ, cách làm ở Điện Biên

Phát huy trách nhiệm của những người “Đảng cử, dân bầu” cùng với sự năng động, sáng tạo nhiều bí thư chi bộ ở tỉnh miền núi Điện Biên, không những gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào, mà còn mạnh dạn thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong lao động, sản xuất; góp phần khai thác tiềm năng địa phương, từng bước thay đổi diện mạo quê hương.

Phụ nữ vùng cao Pá Ma Pha Khinh xóa đói giảm nghèo

Phụ nữ vùng cao Pá Ma Pha Khinh xóa đói giảm nghèo

Nhờ mạnh dạn vay vốn đầu tư vào chăn nuôi gia súc, thủy sản, chị Lường Thị Tấc, dân tộc Thái, Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ bản Khoang, xã Pá Ma Pha Khinh, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La đã vượt khó vươn lên, giúp đỡ nhiều chị em phát triển kinh tế; tích cực tham gia các phong trào tại địa phương.

Ông Đường Quang Chiến - Người tiên phong trồng cây dược liệu ở Chí Linh

Ông Đường Quang Chiến - Người tiên phong trồng cây dược liệu ở Chí Linh

Hoàng Hoa Thám là một xã miền núi nằm ở phía đông bắc TP Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nơi đây có nhiều tiềm năng về rừng và đất lâm nghiệp; địa hình, điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đa dạng nên nguồn tài nguyên về hệ thực vật, động vật rất phong phú, trong đó có nhiều loại làm cây thuốc. Sản xuất cây dược liệu tại địa phương là đang là hướng đi mới phù hợp với bà con sinh sống tại đây, vừa có thể mang lại giá trị kinh tế cao, đặc biệt phù hợp với việc tái cơ cấu nông nghiệp, sử dụng đất trồng có hiệu quả hơn…

Điểu Kem - Người con của dân tộc S'tiêng với những cống hiến thầm lặng

Điểu Kem - Người con của dân tộc S'tiêng với những cống hiến thầm lặng

Trong những con người thầm lặng cống hiến cho cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, hình ảnh ông Điểu Kem, một người con của đồng bào dân tộc S'tiêng tại huyện Phú Riềng đã trở thành một tấm gương sáng, lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Những “cây” sáng kiến ở Điện Biên

Những “cây” sáng kiến ở Điện Biên

Năm 2025, tỉnh Điện Biên vinh dự có ba cá nhân được vinh danh ở Giải thưởng Lý Tự Trọng. Họ đều là những cán bộ xuất sắc được ghi nhận, đánh giá cao với nhiều sáng kiến trong rèn luyện, xung kích tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.

Đại úy Đinh Trung Khiếu được Chủ tịch nước tặng Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba năm 2021. Ảnh: Lê Phước Ngọc - TTXVN

Tấm gương thanh niên tiêu biểu nơi vùng cao Bình Định

Đại úy Đinh Trung Khiếu (sinh năm 1990, dân tộc Bahnar, trú xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thạnh, Bình Định), Trợ lý Ban Chính trị, Bí thư Chi đoàn Quân sự huyện Vĩnh Thạnh là tấm gương thanh niên tiêu biểu vùng cao. Với những cống hiến cho công tác Đoàn, hoạt động của đơn vị, anh vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và Trung ương Đoàn tặng Bằng khen.

Tuổi trẻ Sơn La với khát vọng lập thân, lập nghiệp

Tuổi trẻ Sơn La với khát vọng lập thân, lập nghiệp

Những năm qua, chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp” đã được các cấp bộ Đoàn tỉnh Sơn La triển khai sâu rộng tới đoàn viên, thanh niên. Qua đó, chương trình giúp tạo lập môi trường thuận lợi hỗ trợ, cổ vũ, thúc đẩy đoàn viên, thanh niên thi đua lập thân, lập nghiệp, làm giàu trên mảnh đất quê hương; góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh tại địa phương.

Đảng viên Quàng Văn Khóa - "người thầy” của đồng bào dân tộc Thái xã Mường Khoa

Đảng viên Quàng Văn Khóa - "người thầy” của đồng bào dân tộc Thái xã Mường Khoa

Với 75 năm tuổi đời, 46 năm tuổi Đảng, ông Quàng Văn Khóa, dân tộc Thái ở bản Khoa, xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La nhiều năm qua đã dành hết tâm huyết để dạy chữ và tiếng Thái cho bà con dân bản nhằm bảo tồn và giữ gìn tiếng nói và chữ viết riêng mà nhiều dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam không có.

Anh Nguyễn Quốc Huy làm giàu từ sản vật quê hương

Anh Nguyễn Quốc Huy làm giàu từ sản vật quê hương

Với mong ước làm giàu trên mảnh đất quê hương, anh Nguyễn Quốc Huy ở thị trấn Hợp Châu (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc) đã mạnh dạn đầu tư vào nuôi trồng các loại nấm đem lại hiệu quả kinh tế cao và góp phần giải quyết việc làm cho lao động tại địa phương.

Đảng viên trẻ vùng cao Than Uyên tiên phong làm kinh tế

Đảng viên trẻ vùng cao Than Uyên tiên phong làm kinh tế

Nhiều đảng viên trẻ ở vùng cao Lai Châu đã và đang hiện thực hóa ý tưởng, khát khao làm giàu bằng những mô hình khởi nghiệp trên mảnh đất quê hương, khẳng định vai trò đảng viên tiên phong, gương mẫu tích cực làm kinh tế, đóng góp vào sự phát triển chung của địa phương.

Nữ bác sĩ tận tâm chữa bệnh, cứu người

Nữ bác sĩ tận tâm chữa bệnh, cứu người

Gần 15 năm công tác tại Bệnh viện Ung bướu thành phố Đà Nẵng, nữ bác sĩ Nguyễn Thị Minh Chí (sinh năm 1979, trú tại Đà Nẵng), Trưởng khoa Tuyến vú không chỉ làm tốt chuyên môn, tìm ra phương pháp điều trị phù hợp cho từng bệnh nhân mà bác sĩ Chí còn là điểm tựa tin cậy, luôn đồng hành, chia sẻ nỗi đau, giúp bệnh nhân có cảm giác an tâm, vượt qua khó khăn trong quá trình điều trị.

Chị Trương Thị Hân với hành trình xanh đưa sản phẩm cói truyền thống vươn xa

Chị Trương Thị Hân với hành trình xanh đưa sản phẩm cói truyền thống vươn xa

Bằng niềm đam mê với nghề cói xâu truyền thống, chị Trương Thị Hân – Giám đốc Hợp tác xã thủ công mỹ nghệ cói xâu Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách để đưa những sản phẩm từ nguyên liệu quê hương ra thế giới. Các sản phẩm như túi, khay, giỏ đan bằng cói đã mang lại doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động.

Chị Nguyễn Thị Kim Nhung nỗ lực thay đổi nếp nghĩ, cách làm của chị em người dân tộc thiểu số

Chị Nguyễn Thị Kim Nhung nỗ lực thay đổi nếp nghĩ, cách làm của chị em người dân tộc thiểu số

“Bén duyên” với công tác phụ nữ chưa lâu, nhưng với vai trò là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên), chị Nguyễn Thị Kim Nhung luôn gương mẫu, trách nhiệm, hết lòng vì phong trào Hội và được cán bộ, hội viên mến phục, tin yêu.

Trưởng thôn Lò Thị Phương gieo niềm tin, giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững

Trưởng thôn Lò Thị Phương gieo niềm tin, giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững

Nhắc đến chị Lò Thị Phương, Trưởng thôn Làng Un (xã Kiến Thiết, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang), người dân trong thôn ai cũng yêu mến gọi chị là “bông hoa lạ”. Chị được coi là “cánh chim đầu đàn” giúp đồng bào các dân tộc tại địa phương nâng cao nhận thức, phát triển sản xuất, từng bước thoát nghèo bền vững.

Bà Trần Thị Thu, Bí thư Chi bộ ấp Xéo Lá là cầu nối hỗ trợ gia đình ông Ngô Văn Ban vay vốn thực hiện mô hình nuôi chồn thành công, khôi phục và phát triển kinh tế gia đình. Ảnh:Trúc Linh

Bí thư Chi bộ tận tâm giúp dân thoát nghèo

Tại ấp Xẻo Lá, xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển (Cà Mau), bà Trần Thị Thu là Bí thư Chi bộ ấp nhiệt tình, trách nhiệm, luôn chăm lo, giúp đỡ hộ nghèo vươn lên phát triển kinh tế, chung sức xây dựng làng quê khang trang.

Bác sĩ Trần Hồng Vinh say mê nghiên cứu khoa học để áp dụng cứu chữa bệnh nhân

Bác sĩ Trần Hồng Vinh say mê nghiên cứu khoa học để áp dụng cứu chữa bệnh nhân

Hơn 30 năm gắn bó với nghề, Tiến sĩ, bác sĩ Trần Hồng Vinh, Giám đốc Trung tâm Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La luôn say mê nghiên cứu khoa học để áp dụng vào thực tế cứu chữa bệnh nhân. Ghi nhận những cống hiến đó, năm 2022, Tiến sĩ, bác sĩ Trần Hồng Vinh được Chủ tịch nước tặng danh hiệu cao quý Thầy thuốc Ưu tú. Đây không chỉ là vinh dự mà còn là động lực để bác sĩ Trần Hồng Vinh tiếp tục vững bước trên hành trình chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

Điều dưỡng Nguyễn Văn Thanh đến từng nhà để khám bệnh, tư vấn sức khỏe cho đồng bào Ca Dong. Ảnh: Đinh Hương - TTXVN

Tận tụy, tâm huyết vì đồng bào Ca Dong

Trải qua hàng chục năm công tác, gắn bó với đồng bào Ca Dong, huyện miền núi Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, điều dưỡng Nguyễn Văn Thanh và y sĩ Đinh Thị Thơ luôn tận tụy, tâm huyết với nghề, hết lòng vì người bệnh, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp và sự tin yêu của bà con.

Y sỹ Y Bun Toản Niê - Người con áo blouse trắng của buôn làng

Y sỹ Y Bun Toản Niê - Người con áo blouse trắng của buôn làng

Những năm trước đây, xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk từng là điểm nóng về bệnh sốt rét với hàng chục ca mắc mỗi năm, thậm chí đã có trường hợp tử vong. Tuy nhiên, trong hai năm 2023 và 2024, địa phương này không ghi nhận trường hợp mắc sốt rét nào. Thành công ấy là kết quả của sự vào cuộc quyết liệt của ngành Y tế, chính quyền và nhân dân, trong đó có sự đóng góp thầm lặng nhưng bền bỉ của y sỹ Y Bun Toản Niê - một người con của buôn làng luôn hết mình vì sức khỏe cộng đồng.

Đồng bào Jrai thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp bền vững

Đồng bào Jrai thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp bền vững

Hành trình của vợ chồng chị Rơ Châm Awưnh và anh Siu Sắt tại Gia Lai không chỉ là câu chuyện về một thương hiệu cà phê sạch, mà còn là sự đổi thay trong nhận thức của đồng bào Jrai về phương thức sản xuất nông nghiệp bền vững. Từ những vườn cà phê truyền thống, họ đã tiên phong áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao giá trị nông sản, tạo sinh kế ổn định cho cộng đồng.