Độc đáo nghi lễ đặt tên cho trẻ của người La Hủ

Độc đáo nghi lễ đặt tên cho trẻ của người La Hủ
Đối với đồng bào La Hủ, cái tên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chu kỳ vòng đời của mỗi con người. Vì thế, tập tục đặt cho trẻ mới sinh được người La Hủ tiến hành sau 3 ngày đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời. Tập tục này cũng có một số kiêng kị nhất định.
Khi đứa trẻ được sinh ra, 2 mẹ con phải nằm trong buồng, cạnh nơi ngủ cũ, không được nằm trên giường của 2 vợ chồng. Đứa trẻ sinh ra được 3 ngày gia đình phải làm lễ cúng tổ tiên để đặt tên cho con. Trong vòng 3 ngày đó nếu gia chủ có khách tới chơi họ có thể mời vị khách này đặt tên cho đứa trẻ.

Để thực hiện nghi thức đặt tên cho trẻ gia chủ chuẩn bị một con gà, 1 chai rượu để cúng tổ tiên, cầu cho đứa trẻ mới sinh gặp nhiều may mắn với tên gọi của mình. Tên của đứa trẻ được căn cứ vào ngày sinh và giới tính của đứa trẻ. Trừ trường hợp đứa bé sinh vào ngày hổ và ngày khỉ, những ngày còn lại thường được dùng làm tên đệm cho trẻ. Ví như đứa trẻ ấy sinh vào ngày rắn (lò nhi) tên đệm của đứa bé sẽ là Lò.
Về nghi thức đặt tên theo giới tính với bé trai, tên phổ biến nhất là Xá (to) hoặc Hừ (đẹp) còn đối với bé gái tên phổ biến nhất là Xó hoặc Pớ (đây là những cái tên biểu thị cho sự may mắn. Ví dụ, nếu đứa trẻ là con trai thì đặt tên là Phí Xè (Phí là chỉ ông thầy cúng; còn Xè là thuộc những từ chỉ gọi con trai); nếu đứa trẻ là con gái thì đặt là Phí Nu (Phí cũng là chỉ thầy cúng; còn Nu là tên thường gọi của người phụ nữ).
Một số gia đình La Hủ nhờ thầy cúng đặt tên cho con. Khi đó, đứa trẻ sẽ mang tên thầy cúng. Vì thầy biết xua đuổi tà ma, giúp đứa trẻ mạnh khỏe, mau lớn. Người La Hủ cũng quan niệm lễ đặt tên cho trẻ chỉ tiến hành trong buổi sáng mà không kéo dài sang chiều.

Sau nghi lễ đặt tên, mọi người tham dự lần lượt đến buộc chỉ vào tay của sản phụ và đứa trẻ để chúc mừng, cầu cho 2 mẹ con sức khỏe.
Sau 3 đến 4 tháng nếu đứa trẻ hay khóc hoặc ốm yếu, gia chủ có thể tiến hành làm lễ đặt lại tên. Kể cả khi đứa trẻ lên 4 hoặc 5 tuổi mà vẫn chậm lớn hoặc biếng ăn thì gia chủ cũng có thể thay tên một lần nữa. Các tên gọi sau khi đặt lại không cần tuân theo nguyên tắc ban đầu.
Theo langvietonline.vn 
Dân tộc La Hủ

Tên tự gọi: La Hủ.

Tên gọi khác: Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú.

Nhóm địa phương: La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng).

Dân số: 9.651 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn.

Hoạt động sản xuất: Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.Săn bắt, đánh cá, hái lượm có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế.

Ăn: Người La Hủ đã chuyển từ ăn ngô, cơm nếp sang chủ yếu cơm tẻ, thích dùng các loại thịt chim, thú do săn bắn được, cá bắt ở khe suối, măng chua, canh đậu, bầu bí.

Mặc: Người La Hủ không có truyền thống trồng bông. Trước đây, phụ nữ thường đem thịt thú rừng, nấm hương, thuốc phiện và các lâm thổ sản quý đổi lấy vải của các dân tộc khác hoặc đổi lấy bông để tự dệt thành vải. Phụ nữ mặc quần áo dài. Mặc hai lớp áo, áo trong tay dài, cài khuy bên nách phải, áo ngoài tay ngắn, cài khuy giữa ngực. Ngày thường họ chỉ mặc áo dài, ngày lễ, tết mặc thêm áo ngắn ra ngoài.

: Trước đây họ thường làm nhà, lều rải rác ở ngay trên nương, trên núi cao thuộc hai xã Pa Ủ và Pa Vệ Sủ huyện Mường Tè (Lai Châu). Nhà lợp lá, lá vàng lại chuyển đi nơi khác nên người La Hủ mới có tên Xá lá vàng. Hiện nay, họ phổ biến ở nhà trệt hoặc trình tường bằng đất hoặc ván. Bếp, nhà thờ và giường ngủ của gia đình bao giờ cũng ở chung một gian.

Phương tiện vận chuyển: Người La Hủ quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai đeo vai để chuyên chở trong điều kiện địa hình rất dốc. Hon thường địu trẻ khi đi ca hay lúc làm việc.

Quan hệ xã hội: Người La Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay đổi thường xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hoá giàu nghèo. Người phụ nữ được tôn trọng trong gia đình song có ít vai trò xã hội.

Quan hệ dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ cúng bái cho cả họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ ý nghĩa.

Cưới xin: Trai gái La Hủ được phép tự do yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi được tiến hành qua nhiều bước. Trong só lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc phải có thịt sóc. Sau lễ cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại với những chàng trai không sắm đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.

Sinh đẻ: Phụ nữ La Hủ được phép đẻ trong gian buồng của mình với sự giúp đỡ của mẹ chồng hay chị em gái. Sau khi đẻ ba ngày thì lễ đặt tên cho đứa trẻ. Tên của trẻ sơ sinh thường được đặt theo ngày sinh, do vậy trong cộng đồng người La Hủ, việc trùng tên khá phổ biến. Nếu thấy trẻ lâu lớn hoặc hay đau ốm, có thể làm lễ đổi tên khác.

Ma chay: Khi nhà có người chết, người ta bắn súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm biết. Quan tài thường là một khúc gỗ bổ đôi, khoét rỗng cả hai nửa. Ngày giờ đi chôn được lựa chọn cẩn thận. Người La Hủ không có nghĩa địa cố định. Thời hạn để tang của con cái đối với cha mẹ là ba năm song không có các dấu hiệu đặc biệt trên trang phục hay đầu tóc.

Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất chỉ vào các dịp cơm mới, ngày tết tháng bảy hay gieo xong lúa nương, khi cưới xin, ma chay. Không có tục cúng vào ngày giỗ. Lễ vật duy nhất dâng cho tổ tiên là cơm gói trong lá rừng.

Là cư dân hái lượm nhưng vào dịp tết cơm mới, đầu tháng 10 hay tháng 11, họ kiêng 3 ngày không đi hái rau, lấy củi, chặt cây, phát cỏ trong rừng để cầu mong cây cỏ tốt quanh năm.

Quan niệm về sự sống và chết là do trời định. Ở trên trời có hai căn nhà, một gọi là nà đề (nhà ốm), một gọi là xơ đề (nhà chết). Nếu hồn của người nào lên đến xơ đề thì nhất định sẽ chết. Còn nếu hồn lên tới nà đề thì phải làm lễ cúng xin hồn về để được sống lâu hơn. Người ta tin mỗi người chỉ sống trong một hạn tuổi đã định ngay từ khi mới đẻ ra. Nhưng cũng có thể sống vượt quá hạn đó nếu như tổ chức lễ cúng di chá. Phải bói để tìm nguyên nhân giải hạn này.

Học: Xưa kia, người La Hủ không có chữ. Hiện nay, học sinh học chữ quốc ngữ. Người La Hủ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 12 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật. Họ biết nhiều cây thuốc trên rừng. Ðể giữ bí mật và mong sự linh nghiệm của những cây thuốc, người ta thường phủ lên trên những nghi lễ, tín ngưỡng. Mỗi lần định đi hái thuốc họ giữ kín cả buổi không nói chuyện với ai, bất chợt lẻn vào rừng không cho người khác biết.

Văn nghệ: Người La Hủ thích nghe và sử dụng thành thạo khèn.

Chơi: Chiều chiều, trẻ em thường quây quần bên đống lửa quanh nhà, bên bờ suối vừa chơi, vừa hát, gõ cây làm nhịp.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc La Hủ

Có thể bạn quan tâm

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Ngày 6/6, UBND tỉnh Lai Châu và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ký kết thỏa thuận hợp tác đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2025 - 2030.

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Ngày 4/6, tại tỉnh Sóc Trăng, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề án sắp xếp, hợp nhất Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng 3 tỉnh, thành phố (hội nghị lần thứ 3).

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong những ngày đầu tháng này, các phương tiện truyền thông Campuchia đăng tải nhiều chủ đề bài viết đính kèm hình ảnh đa dạng, giới thiệu về cuộc sống mới với nhiều khởi sắc, đổi thay toàn diện trong vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, địa phương đã tổ chức được mạng lưới 198 hợp tác xã nông nghiệp - thủy sản, thu hút gần 55.000 thành viên; giải quyết công ăn việc làm cho gần 2.000 lao động. Đến đầu tháng 6/2025, các hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản đã đạt doanh thu khoảng 140 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước.

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Ngày 30/5, tại Sóc Trăng, Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng Cụm thi đua số 6 (gồm 10 địa phương: Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ) về công tác dân tộc.

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Được thành lập từ năm 2019, mô hình “Họ đạo bình yên - Gia đình hạnh phúc” ở buôn B’laosire thuộc tổ dân phố 14, phường B’Lao (thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng) được đánh giá cao bởi tính hiệu quả. Từ nhiều năm qua, mô hình góp phần bảo đảm an ninh trật tự, người dân tập trung làm ăn phát triển kinh tế, hàng chục hộ vươn lên thoát nghèo, Họ đạo được Bộ Công an khen thưởng vào năm 2024.

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Chiếc áo mộc mạc, được làm từ những tàu lá cọ khô, không chỉ là vật dụng che mưa nắng quen thuộc của người dân thôn Yên Lạc (xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) suốt hàng trăm năm, mà còn là biểu tượng của sự cần cù, khéo léo và nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc. Giữa nhịp sống hối hả, nghề chằm áo tơi truyền thống vẫn được người dân lặng lẽ “giữ lửa”, trao truyền qua bao thế hệ, bảo tồn một phần hồn quê hương trong từng sợi lá.

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Đồng bào dân tộc Hà Nhì có nhiều phong tục đặc sắc, trong đó có Tết mùa mưa (Dế Khừ Chà) là một trong bảy Tết trong năm theo phong tục cổ truyền của người Hà Nhì.

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Vào độ xuân về khi hoa ban nở trắng rừng, người Xinh Mun ở Sơn La lại tổ chức Lễ Mạng Ma – một nghi lễ tâm linh truyền thống cầu sức khỏe, giải hạn, thể hiện niềm tin sâu sắc vào sự kết nối giữa con người với thần linh, tổ tiên và vạn vật thiên nhiên.

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Dân tộc Lự là một trong những dân tộc rất ít người có số dân dưới 10 nghìn người hiện đang sinh sống chủ yếu ở huyện Tam Đường và huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu, đã từ lâu, tục nhuộm răng đen của phụ nữ dân tộc Lự là một trong những nét văn hóa đặc trưng. Hiện, các cấp ủy, chính quyền huyện tăng cường tuyên truyền vận động người dân tiếp tục truyền dậy, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc Lự trước nguy cơ bị mai một.

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Trong khuôn khổ các hoạt động của Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam (19/4), tại Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Ê Đê đã tái hiện nghi lễ trưởng thành đặc sắc của dân tộc mình.

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Cao Bằng, một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Một trong những món ăn truyền thống nổi bật của người Tày, người Nùng ở đây là bánh Khẩu Sli, món bánh mang đậm hương vị quê hương và được người dân nơi đây coi là món quà tuyệt vời trong những dịp lễ, Tết.

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Đến hẹn lại lên, cứ vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hằng năm, đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) nô nức hội tụ tại các điểm trung tâm bản để tổ chức Lễ Cúng rừng hay còn gọi Tết rừng.

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu tại Quảng Ninh sở hữu những đặc trưng riêng, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong chế biến, phối hợp các thực phẩm. Một trong những món ăn đặc sắc đó là bánh bạc đầu đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Thưởng thức các món bánh thơm ngon và tìm hiểu về văn hóa độc đáo của người Sán Dìu ở vùng cao Quảng Ninh là trải nghiệm đáng nhớ.