Nghề mây, tre đan truyền thống là một nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Điện Biên.
Đây còn là hoạt động không thể thiếu trong đời sống của đồng bào, được đúc kết từ những kinh nghiệm và trao truyền qua nhiều thế hệ. Đến nay, nghề mây, tre đan vẫn được thực hành trong đời sống hằng ngày, bảo đảm giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định; góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc, cốt cách làng nghề mà cha ông để lại.
Đậm đà bản sắc văn hóa
Kỹ thuật đan mây, tre truyền thống của người Thái tỉnh Điện Biên có từ lâu đời; được hình thành, phát triển thông qua lao động sản xuất của nhiều thế hệ, được lưu giữ, kế thừa và phát triển trong cộng đồng dân tộc Thái. Ban đầu, đồng bào chỉ đan các đồ dùng có hình dáng và kỹ thuật đơn giản để phục vụ sinh hoạt gia đình. Trải qua quá trình tư duy sáng tạo, người Thái đã làm ra các sản phẩm đan lát có kỹ thuật cầu kỳ hơn, hình dáng đa dạng và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: Đồ dùng trong sinh hoạt hằng ngày, hoạt động tín ngưỡng, lao động sản xuất...
Hiện nay, nghề mây, tre đan ở tỉnh Điện Biên tập trung ở các xã như Nà Tấu, Mường Ảng, Na Sang, Mường Chà… Theo người dân địa phương, nét đặc trưng truyền thống trong sản phẩm của đồng bào dân tộc Thái nơi đây là hình dáng tuy đơn giản, mộc mạc nhưng kỹ thuật lại rất tinh xảo, đòi hỏi những đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân.
Hơn 50 năm gắn bó với nghề đan mây, tre ở xã Nà Tấu, ông Quàng Văn Phích vẫn say mê nghề truyền thống này. Ông Phích chia sẻ, trước đây, các sản phẩm chủ yếu phục vụ đời sống hằng ngày, giá trị kinh tế chưa cao. Vài năm gần đây, khi người dân có xu hướng sử dụng đồ dùng thân thiện, sản phẩm mây, tre đan đã tìm được chỗ đứng mới. Nhiều tổ hợp tác, cơ sở sản xuất được hình thành, liên kết với doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đưa sản phẩm ra thị trường.
Theo ông Phích, muốn tạo ra được những sản phẩm bền và đẹp, người thợ phải có kinh nghiệm tìm mây, tre. Những cây tre có vẻ bề ngoài tuy sần sùi, màu sắc không bắt mắt nhưng đó là những cây tre già, thích hợp để đan lát. Đối với cây mây, cây song thì chỉ lấy dây già, leo trên cây cao, có màu vàng hoặc xanh để đảm bảo độ dẻo. Đồng thời, những cây mây, tre phải thẳng đều và dài thì mới cho ra sợi nan suôn mượt và khi đan không phải nối nhiều đoạn.
Cùng với đó, chất lượng và thẩm mỹ của sợi mây, cây tre sau khi được lựa chọn chính là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định giá trị của sản phẩm mây tre đan truyền thống. Nan tre sau khi chẻ xong được vót trơn, bóng, đều, mềm, nhẵn để khi đan các nan khít vào nhau. Tùy vào mỗi loại sản phẩm mà người đan sử dụng các kỹ thuật khác nhau như: Đan nong mốt, nong đôi, nong ba... Dù sử dụng kỹ thuật đan nào thì trước tiên người đan phải xếp các nan dọc để tạo thành khung cho sản phẩm.
Các kiểu đan phong phú, đa dạng nhưng để tạo ra các sản phẩm mới, mang tính thẩm mỹ và giá trị sử dụng cao thì phụ thuộc vào sự sáng tạo, khéo léo của các nghệ nhân. Tùy vào từng công dụng của các sản phẩm mà người đan tạo dáng cho phù hợp như: Các sản phẩm đáy vuông hoặc chữ nhật, thân hình trụ, miệng tròn, hình vuông, hình thang, hình trụ hay loe hình phễu...
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc giữa dòng chảy hiện đại
Tại xã Na Sang, nghề đan mây, tre đang được duy trì và phát triển. Toàn xã hiện có hàng chục hộ theo nghề, tập trung ở các bản như: Co Đứa, Na Sang 1, Na Sang 2. Bà Lò Thị Đon (bản Co Đứa) chia sẻ: “Là sản phẩm thủ công nên được khách ưa thích vì bền, đẹp, lại thân thiện với môi trường. Mỗi sản phẩm làm ra đều có người dân, doanh nghiệp đến tận nơi thu mua. Nhờ thu mua đều, có tháng tôi bán được vài chục sản phẩm như mẹt, giỏ, khay. Nhiều hộ trong bản cũng theo nghề, vừa có việc làm lúc nông nhàn vừa có thêm thu nhập”.
Nhờ ổn định đầu ra, đến nay, nhiều gia đình ở các xã Nà Tấu và Na Sang vẫn duy trì được nghề và có thêm thu nhập. Trung bình mỗi tháng, các hộ làm nghề có thể thu về từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng, tùy theo số lượng và loại sản phẩm. Giá sản phẩm tùy loại, dao động từ 50.000 đến 400.000 đồng. Tuy nhiên, sản phẩm đặc biệt hơn như mâm ăn cơm bằng mây được bán với giá từ 1,2 - 1,5 triệu đồng.
Với những giá trị văn hóa, kinh tế - xã hội mà nghề đan mây, tre mang lại, ngày 3/6/2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 1659/QĐ-BVHTTDL công nhận “Kỹ thuật đan mây, tre của người Thái tại tỉnh Điện Biên” vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào của đồng bào người Thái, mà còn khẳng định giá trị của nghề truyền thống giàu bản sắc văn hóa dân tộc giữa dòng chảy hiện đại.
Với niềm tự hào sau khi kỹ thuật mây, tre đan được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ngành Văn hóa, cấp ủy, chính quyền các xã định hướng người dân đầu tư thời gian, công sức để tạo ra những sản phẩm tinh xảo hơn, kết hợp các mẫu mã hiện đại với hoa văn truyền thống, biến những sản phẩm truyền thống thành quà lưu niệm đặc trưng của vùng đất Điện Biên. Từ đó, giúp nghề mây, tre đan hướng tới thị trường du lịch, mở rộng đầu ra cho sản phẩm và tạo thêm sinh kế bền vững cho người dân.
Theo Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên Trần Hải Hà, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước, thời gian tới, đơn vị tập trung xây dựng cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý, tuyên truyền, đồng hành với doanh nghiệp và người dân trong các vấn đề liên quan tới bảo tồn, phát triển đa dạng sản phẩm du lịch… Từ đó, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân cũng như cơ hội hiểu biết hơn về văn hóa, di sản, ứng phó tốt hơn với những thay đổi về sinh kế để có thể khai thác hiệu quả, hợp lý các giá trị di sản thành hàng hóa chất lượng cao.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ là cầu nối đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, thông tin tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và người dân, doanh nghiệp về vai trò, tầm quan trọng, những lợi ích mà di sản mang lại, biến di sản thành tài sản. Đơn vị sẽ đa dạng hóa công tác thông tin, tuyên truyền phù hợp với nhận thức của người dân; từ đó có những hành động đúng đắn nhằm phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch bền vững, xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện.../.
Tên tự gọi: Tay hoặc Thay
Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Theo cema.gov.vn