Trong hai ngày 11 và 12/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức bàn giao mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông.
Hoạt động nằm trong Dự án 6 về “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, nhằm tôn vinh, phát huy hiệu quả giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng.
Cụ thể, tại nhà rông truyền thống của làng Kon Jong, xã Ngọk Réo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi trưng bày gần 30 hiện vật như Mô hình khung dệt vải đã giăng sợi, Khung giăng sợi, các bộ trang phục. Qua đó, giới thiệu về nghề dệt thổ cẩm, nghề đan lát, nông cụ và săn bắt, các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc Xơ Đăng - nhánh Tơ Đ'ră. Đây không chỉ là nơi lưu giữ, giáo dục văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ trong làng, mà còn trở thành điểm đến thú vị cho du khách khi đến thăm quan, trải nghiệm.
Ông Hà Quốc Mạnh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Ngọc Réo cho biết, việc tổ chức xây dựng “mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng” là một hoạt động ý nghĩa góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống đang có nguy cơ mai một tại xã, đồng thời tạo thành một hình thức, một sản phẩm văn hóa đặc trưng nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương.
“Trong thời gian tới, các ban ngành, đoàn thể trong thôn Kon Jong sẽ thường xuyên vận động bà con tham gia luyện tập cồng chiêng, dệt thổ cẩm, phục dựng lễ hội truyền thống; đồng thời gìn giữ không gian văn hóa, nhà rông, phong tục tốt đẹp của dân tộc mình, để các hoạt động phát huy di sản văn hóa truyền thống trên địa bàn xã Ngọc Réo sẽ được nhân rộng hơn nữa, thu hút nhiều người tham gia mô hình qua đó tạo không gian văn hóa lành mạnh đáp ứng nhu cầu bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc”, ông Hà Quốc Mạnh nêu rõ.
Bà con nhân dân xã Ngọc Réo tham quan mô hình của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră).
Có mặt tại nhà rông làng Kon Jong, em A Thức chia sẻ, bản thân em được sinh ra và lớn lên trong thời đại công nghệ, nhiều nét văn hóa truyền thống đã bị mai một. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cấp, các ngành, nhiều nét văn hóa, không gian văn hóa của dân tộc Xơ Đăng – nhánh Tơ Đ’ră đã được phục dựng, trưng bày.
“Việc trưng bày này rất bổ ích, giúp thế hệ trẻ chúng em hiểu được những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Em sẽ học hỏi các nghệ nhân để biết về nghề đan lát, bởi em thấy những sản phẩm này rất đẹp”, em A Thức nói.
Tương tự, tại xã Kon Plông, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi cũng tổ chức trưng bày gần 30 hiện vật thuộc các nghề dệt, đan lát, nông cụ, săn bắn, nhạc cụ truyền thống.
Ông Đặng Đình Toán, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kon Plông cho biết, các hiện vật tại mô hình trưng bày đều là những sản phẩm tiêu biểu phản ánh nét sinh hoạt, lao động và văn hóa lâu đời của cộng đồng dân tộc Xơ Đăng – nhánh Mơ Nâm tại xã Kon Plông. Đây là điều kiện thuận lợi để xã phấn đấu đến năm 2030 sẽ có 3 đến 5 thôn du lịch cộng đồng, 3 đến 5 điểm du lịch sinh thái và đón khoảng 1 triệu lượt khách.
Bà con nhân dân xã Ngọc Réo tham quan mô hình của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră).
Có thể khẳng định, việc triển khai mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông đã và đang góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng nói riêng, các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói chung. Không chỉ giúp giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống của dân tộc, việc bảo tồn các nét văn hóa còn mở ra sinh kế cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các hình thức du lịch trải nghiệm, du lịch văn hóa của dân tộc mình./.
Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.
Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.
Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.
Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.
Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.
Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.
Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.
Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.
Ở: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.
Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.
Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.
Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.
Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.
Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.
Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.
Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...
Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.
Theo cema.gov.vn