Đồng bào dân tộc Cơ Tu cũng như các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống tại TP Đà Nẵng, có rất nhiều các giá trị văn hóa đặc sắc góp phần làm cho nền văn hóa của Việt Nam thêm đậm đà, phong phú. Các giá trị văn hóa đó không chỉ thể hiện trong văn hóa vật thể, mà còn thể hiện trong văn hóa phi vật thể.
Văn hóa vật thể được thể hiện rõ nhất là những mái gươl, ngôi nhà sàn, nhà dài, trang phục, trang sức… Còn văn hóa phi vật thể, ngoài những câu nói lý, hát lý những âm thanh từ các nhạc cụ, những nét hoa văn từ trang phục truyền thống, truyện dân gian, còn có các lễ hội truyền thống.
Các lễ hội được tổ chức như cầu nối thể hiện tình cảm giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Mỗi lễ hội được tổ chức mang ý nghĩa sâu sắc chứa đựng tất cả các yếu tố gắn với cuộc sống của người Cơ Tu...
Trong đời sống tinh thần của người Cơ Tu, bên cạnh lễ mừng lúa mới, lễ khánh thành gươl, lễ tìm đất lập làng… còn có lễ kết nghĩa (hay còn gọi là pro ngooch). Từ “prơliêm” mang nghĩa vun đắp tình cảm tốt đẹp, còn “prơ âm” gợi hình ảnh mời nhau uống rượu để giữ mối quan hệ bền chặt. Chính ý nghĩa này đã giúp lễ kết nghĩa tồn tại đến ngày nay như một biểu tượng của hòa giải, đoàn kết và gắn bó cộng đồng.
Từ sáng sớm, đồng bào đã tất bật dựng cây nêu, chuẩn bị lều cúng, heo, gà, xôi, thổ cẩm và các lễ vật. Người già hay trẻ nhỏ đều khoác lên mình trang phục truyền thống chỉnh tề, rạng rỡ chờ đón nghi lễ.
Nếu trước kia lễ kết nghĩa được tổ chức để hóa giải mâu thuẫn giữa các làng, giữ gìn sự yên ổn lâu dài, thì ngày nay nghi lễ mang ý nghĩa mở rộng: Thắt chặt đoàn kết, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, gìn giữ an ninh, bảo tồn văn hóa và thúc đẩy du lịch. Nhờ đó, lễ kết nghĩa góp phần vun đắp khối đại đoàn kết cộng đồng.
Tại làng Văn hoá, Du lịch các dân tộc Việt Nam, đồng bào Cơ Tu đã tái hiện một số phân cảnh đặc sắc như: Phân cảnh Đại diện Già làng xã Sông Kôn đến mời xã Đông Giang để tổ chức lễ kết nghĩa; phân cảnh Đại diện già làng xã Sông Kôn được cử đi mời xã Đông Giang về báo cáo tình hình tại cuộc họp các già làng; phân cảnh xã Đông Giang đến xã Sông Kôn cùng tổ chức lễ kết nghĩa hai bên nói lý, hát lý; phân cảnh xã Sông Kôn và Đông Giang tổ chức cúng, mời rượu và phân cảnh múa trống chiêng mừng lễ kết nghĩa.
Theo Điều 4 của Luật Di sản năm 2014: "Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan".
Trong phân cảnh 1, đại diện già làng xã Sông Kôn sang mời xã Đông Giang tổ chức lễ kết nghĩa, không khí trang trọng hiện lên ngay từ khâu chuẩn bị. Bên Sông Kôn dựng nêu, sắp trống chiêng, chuẩn bị trâu, bò, heo, cơm, rượu trắng, thuốc, trà… Bên Đông Giang cũng kỳ công không kém với bánh sừng trâu, cơm lam, xôi, gà, chim, cá, ếch, rượu cần, tấm tút... Tất cả lễ vật đều mang ý nghĩa thiêng, là lời thề giao kết thiện chí giữa hai cộng đồng.
Thủ tục quan trọng nhất trước ngày chính lễ là việc Sông Kôn cử hai già làng sang Đông Giang trình lễ mời. Khi hai bên ngồi lại, những câu nói lý, hát lý vang lên như sợi dây nối hai cộng đồng: Lời ca ví von lễ vật, lễ thức, âm sắc trống chiêng, đồng thời là lời nguyện cầu quan hệ bền chặt, thuận hòa…
Sau khi thống nhất thời gian, số lượng người tham dự và các điều kiêng cữ, đại diện Sông Kôn trở về báo cáo với già làng và dân làng, hoàn tất nghi thức đi mời thiêng liêng.
Ở phân cảnh 2, đại diện già làng xã Sông Kôn được cử sang mời xã Đông Giang, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông Bríu Diu và ông Zơđêl Vy trở về báo cáo trước cuộc họp các già làng. Già làng Sông Kôn tổ chức họp để nghe hai cụ cử đi mời xã Đông Giang báo cáo tình hình như: Thời gian, số lượng xã Đông Giang đến Sông Kôn…
Sang phân cảnh 3, xã Đông Giang chính thức đến Sông Kôn để cùng tổ chức lễ kết nghĩa. Trước giờ đón đoàn Đông Giang, Sông Kôn cử hành lễ cúng trang trọng để báo với Giàng, thần linh, trời đất, những lực lượng che chở, bảo hộ cho cộng đồng, về việc tổ chức lễ kết nghĩa. Lời khấn cầu mong sự phù hộ để buổi lễ diễn ra suôn sẻ, hòa hiếu, gắn kết, không xảy ra điều bất trắc, như cách người Cơ Tu gìn giữ sự linh thiêng và hài hòa của núi rừng.
Khi xã Đông Giang đã đến ngõ của địa điểm tổ chức, xã Sông Kôn cử đại diện 2 người đề đón xã Đông Giang tại ngõ (người Cơ Tu gọi là ga nâu). Các thanh niên, phụ nữ nhận các lễ vật từ xã Đông Giang mang theo như cơm lam, bánh sừng trâu, xôi, gà, vịt, cá, ếch, rượu cần, tà vạc, trơ đin, tấm tút... Khi đã tiếp nhận các lễ vật xong, đại diện xã Sông Kôn mời rượu và nói lý với đoàn xã Đông Giang, sau đó xã Đông Giang đáp lại.
Khi thủ tục mời rượu và phần nói lý của đoàn Đông Giang kết thúc, đại diện Sông Kôn trân trọng mời đoàn quay một vòng quanh cây nêu, biểu tượng thiêng của buổi lễ. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn rã vang lên, hòa cùng bước chân nghiêm trang, như lời chào mừng và “xác tín linh thiêng” cho tình kết nghĩa vừa được khẳng định, sâu sắc thêm...
Tại sân lễ, già làng cùng bà con Sông Kôn đã tề tựu đông đủ đón đoàn. Những cái bắt tay nồng hậu và ánh nhìn sẻ chia tạo nên không khí ấm cúng, trang trọng của hai cộng đồng anh em. Khi đoàn đã yên vị, phần nói lý, hát lý tiếp tục được cất lên. Đây là nghệ thuật ứng khẩu độc đáo của người Cơ Tu: Lời nói phải tinh, chặt chẽ về lập luận; câu hát phải sâu, thấm, giàu phép ví von và ẩn dụ. Nói lý, hát lý vì thế không chỉ là đối đáp mà còn là cuộc thử tài, thử trí, khiến người nghe phải suy ngẫm, chắt lọc hiểu biết để hồi đáp sao cho thấu tình, đạt nghĩa.
Năm 2015, nói lý, hát lý đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bởi vậy, trong mỗi lễ hội, mỗi sự kiện quan trọng của làng, của xã, nghệ thuật diễn xướng này luôn hiện diện, như linh hồn văn hóa của người Cơ Tu, không thể thiếu và không thể thay thế.
Trong lễ kết nghĩa giữa Sông Kôn và Đông Giang, lời hát lý và câu nói lý đều hướng về một chủ đề thiêng liêng như mối đoàn kết bền chặt giữa hai cộng đồng. Tình nghĩa vốn hài hòa từ trước nay lại thêm lần nữa được khẳng định, nâng lên thành giao ước văn hóa, cộng đồng. Sau lễ kết nghĩa, hai xã cùng thống nhất giữ mối quan hệ tốt đẹp, tôn trọng, hỗ trợ nhau và nguyện gìn giữ hòa hiếu, không xảy ra bất hòa, đúng với tinh thần núi rừng Cơ Tu: Gắn bó, trong sáng và thủy chung.
Đến phân cảnh 4, cúng lễ kết nghĩa, sau phần mời rượu và đối đáp nói lý, hát lý, hai bên cùng tiến hành nghi thức báo với Giàng, thần linh, trời đất về việc xác lập mối kết nghĩa lâu bền giữa Sông Kôn và Đông Giang. Lễ vật được bày trang trọng trên mâm cúng, đặt tại lều cúng đã được chuẩn bị từ trước: Đầu heo, gà, cá, xôi, huyết heo, huyết gà, rượu trắng, rượu cần, trà thuốc… Tất cả được dọn đủ, ngay ngắn, thể hiện sự kính trọng đối với linh lực bảo hộ cho cộng đồng.
Sau khi thực hiện thủ tục cúng, hai bên mời rượu cho nhau để Giàng và thần linh chứng kiến từ hai xã đã trở thành bạn bè thân hữu và hứa với Giàng với thần linh sau khi tổ chức lễ hai xã sẽ không để xảy ra bất cứ mâu thuẫn, có khó khăn hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, luôn thể hiện tình keo sơn, đoàn kết, gắn bó. Đồng thời cùng nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Khép lại buổi lễ là phân cảnh múa trống chiêng, âm thanh vang vọng giữa núi rừng như lời chúc mừng, nhịp đập niềm tin cho sự khởi đầu mới. Trống dồn, chiêng ngân, vòng xoay điệu múa rộn rã hòa cùng tiếng hò reo của cộng đồng, tạo nên không gian lễ hội đầy sắc màu. Từ đây hai xã chính thức bước vào mối quan hệ hòa hiếu, bền lâu, được Giàng chứng giám.
Vượt ra khỏi ý nghĩa một nghi lễ truyền thống, lễ kết nghĩa của người Cơ Tu là thông điệp sống đẹp, sống cùng nhau và sống vì nhau. Qua đó góp phần bồi đắp khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, để bản sắc không chỉ được gìn giữ mà còn được lan tỏa trong dòng chảy hiện đại.
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.