Tái hiện lễ kết nghĩa Cơ Tu: Gìn giữ mạch nguồn đoàn kết giữa đại ngàn

Tái hiện lễ kết nghĩa Cơ Tu: Gìn giữ mạch nguồn đoàn kết giữa đại ngàn
Tái hiện lễ kết nghĩa Cơ Tu: Gìn giữ mạch nguồn đoàn kết giữa đại ngàn

Ngày 7/12, tại làng Văn hoá, Du lịch các dân tộc Việt Nam, đông đảo người dân và du khách ghé thăm, tìm hiểu những nét văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có lễ kết nghĩa của đồng bào Cơ Tu, Đà Nẵng.

Đồng bào dân tộc Cơ Tu cũng như các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống tại TP Đà Nẵng, có rất nhiều các giá trị văn hóa đặc sắc góp phần làm cho nền văn hóa của Việt Nam thêm đậm đà, phong phú. Các giá trị văn hóa đó không chỉ thể hiện trong văn hóa vật thể, mà còn thể hiện trong văn hóa phi vật thể.

Văn hóa vật thể được thể hiện rõ nhất là những mái gươl, ngôi nhà sàn, nhà dài, trang phục, trang sức… Còn văn hóa phi vật thể, ngoài những câu nói lý, hát lý những âm thanh từ các nhạc cụ, những nét hoa văn từ trang phục truyền thống, truyện dân gian, còn có các lễ hội truyền thống.

Các lễ hội được tổ chức như cầu nối thể hiện tình cảm giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Mỗi lễ hội được tổ chức mang ý nghĩa sâu sắc chứa đựng tất cả các yếu tố gắn với cuộc sống của người Cơ Tu...

p41.jpg
Trích đoạn tái hiện lễ kết nghĩa giữa xã Sông Kôn và xã Đông Giang thành phố Đà Nẵng.

Trong đời sống tinh thần của người Cơ Tu, bên cạnh lễ mừng lúa mới, lễ khánh thành gươl, lễ tìm đất lập làng… còn có lễ kết nghĩa (hay còn gọi là pro ngooch). Từ “prơliêm” mang nghĩa vun đắp tình cảm tốt đẹp, còn “prơ âm” gợi hình ảnh mời nhau uống rượu để giữ mối quan hệ bền chặt. Chính ý nghĩa này đã giúp lễ kết nghĩa tồn tại đến ngày nay như một biểu tượng của hòa giải, đoàn kết và gắn bó cộng đồng.

Từ sáng sớm, đồng bào đã tất bật dựng cây nêu, chuẩn bị lều cúng, heo, gà, xôi, thổ cẩm và các lễ vật. Người già hay trẻ nhỏ đều khoác lên mình trang phục truyền thống chỉnh tề, rạng rỡ chờ đón nghi lễ.

Nếu trước kia lễ kết nghĩa được tổ chức để hóa giải mâu thuẫn giữa các làng, giữ gìn sự yên ổn lâu dài, thì ngày nay nghi lễ mang ý nghĩa mở rộng: Thắt chặt đoàn kết, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, gìn giữ an ninh, bảo tồn văn hóa và thúc đẩy du lịch. Nhờ đó, lễ kết nghĩa góp phần vun đắp khối đại đoàn kết cộng đồng.

p11.jpg
Phân cảnh Đại diện Già làng xã Sông Kôn đến mời xã Đông Giang đề tổ chức lễ kết nghĩa

Tại làng Văn hoá, Du lịch các dân tộc Việt Nam, đồng bào Cơ Tu đã tái hiện một số phân cảnh đặc sắc như: Phân cảnh Đại diện Già làng xã Sông Kôn đến mời xã Đông Giang để tổ chức lễ kết nghĩa; phân cảnh Đại diện già làng xã Sông Kôn được cử đi mời xã Đông Giang về báo cáo tình hình tại cuộc họp các già làng; phân cảnh xã Đông Giang đến xã Sông Kôn cùng tổ chức lễ kết nghĩa hai bên nói lý, hát lý; phân cảnh xã Sông Kôn và Đông Giang tổ chức cúng, mời rượu và phân cảnh múa trống chiêng mừng lễ kết nghĩa.

Theo Điều 4 của Luật Di sản năm 2014: "Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan".

p1.jpg
Xã Sông Kôn cử hai già làng sang Đông Giang trình lễ mời.

Trong phân cảnh 1, đại diện già làng xã Sông Kôn sang mời xã Đông Giang tổ chức lễ kết nghĩa, không khí trang trọng hiện lên ngay từ khâu chuẩn bị. Bên Sông Kôn dựng nêu, sắp trống chiêng, chuẩn bị trâu, bò, heo, cơm, rượu trắng, thuốc, trà… Bên Đông Giang cũng kỳ công không kém với bánh sừng trâu, cơm lam, xôi, gà, chim, cá, ếch, rượu cần, tấm tút... Tất cả lễ vật đều mang ý nghĩa thiêng, là lời thề giao kết thiện chí giữa hai cộng đồng.

Thủ tục quan trọng nhất trước ngày chính lễ là việc Sông Kôn cử hai già làng sang Đông Giang trình lễ mời. Khi hai bên ngồi lại, những câu nói lý, hát lý vang lên như sợi dây nối hai cộng đồng: Lời ca ví von lễ vật, lễ thức, âm sắc trống chiêng, đồng thời là lời nguyện cầu quan hệ bền chặt, thuận hòa…

Sau khi thống nhất thời gian, số lượng người tham dự và các điều kiêng cữ, đại diện Sông Kôn trở về báo cáo với già làng và dân làng, hoàn tất nghi thức đi mời thiêng liêng.

p26.jpg
Những lời nói lý, hát lý gắn kết cộng đồng hai xã.
p24.jpg
p27.jpg
Tái hiện các phân cảnh của lễ kết nghĩa Cơ Tu tại làng Văn hoá, Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Ở phân cảnh 2, đại diện già làng xã Sông Kôn được cử sang mời xã Đông Giang, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông Bríu Diu và ông Zơđêl Vy trở về báo cáo trước cuộc họp các già làng. Già làng Sông Kôn tổ chức họp để nghe hai cụ cử đi mời xã Đông Giang báo cáo tình hình như: Thời gian, số lượng xã Đông Giang đến Sông Kôn…

Sang phân cảnh 3, xã Đông Giang chính thức đến Sông Kôn để cùng tổ chức lễ kết nghĩa. Trước giờ đón đoàn Đông Giang, Sông Kôn cử hành lễ cúng trang trọng để báo với Giàng, thần linh, trời đất, những lực lượng che chở, bảo hộ cho cộng đồng, về việc tổ chức lễ kết nghĩa. Lời khấn cầu mong sự phù hộ để buổi lễ diễn ra suôn sẻ, hòa hiếu, gắn kết, không xảy ra điều bất trắc, như cách người Cơ Tu gìn giữ sự linh thiêng và hài hòa của núi rừng.

p30.jpg
p31.jpg
Đồng bào Cơ Tu làm lễ cúng trang trọng để báo với Giàng, thần linh, trời đất... về việc tổ chức lễ kết nghĩa.

Khi xã Đông Giang đã đến ngõ của địa điểm tổ chức, xã Sông Kôn cử đại diện 2 người đề đón xã Đông Giang tại ngõ (người Cơ Tu gọi là ga nâu). Các thanh niên, phụ nữ nhận các lễ vật từ xã Đông Giang mang theo như cơm lam, bánh sừng trâu, xôi, gà, vịt, cá, ếch, rượu cần, tà vạc, trơ đin, tấm tút... Khi đã tiếp nhận các lễ vật xong, đại diện xã Sông Kôn mời rượu và nói lý với đoàn xã Đông Giang, sau đó xã Đông Giang đáp lại.

Khi thủ tục mời rượu và phần nói lý của đoàn Đông Giang kết thúc, đại diện Sông Kôn trân trọng mời đoàn quay một vòng quanh cây nêu, biểu tượng thiêng của buổi lễ. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn rã vang lên, hòa cùng bước chân nghiêm trang, như lời chào mừng và “xác tín linh thiêng” cho tình kết nghĩa vừa được khẳng định, sâu sắc thêm...

p32.jpg
Những lời khấn cầu mong sự phù hộ để buổi lễ diễn ra suôn sẻ.

Tại sân lễ, già làng cùng bà con Sông Kôn đã tề tựu đông đủ đón đoàn. Những cái bắt tay nồng hậu và ánh nhìn sẻ chia tạo nên không khí ấm cúng, trang trọng của hai cộng đồng anh em. Khi đoàn đã yên vị, phần nói lý, hát lý tiếp tục được cất lên. Đây là nghệ thuật ứng khẩu độc đáo của người Cơ Tu: Lời nói phải tinh, chặt chẽ về lập luận; câu hát phải sâu, thấm, giàu phép ví von và ẩn dụ. Nói lý, hát lý vì thế không chỉ là đối đáp mà còn là cuộc thử tài, thử trí, khiến người nghe phải suy ngẫm, chắt lọc hiểu biết để hồi đáp sao cho thấu tình, đạt nghĩa.

Năm 2015, nói lý, hát lý đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bởi vậy, trong mỗi lễ hội, mỗi sự kiện quan trọng của làng, của xã, nghệ thuật diễn xướng này luôn hiện diện, như linh hồn văn hóa của người Cơ Tu, không thể thiếu và không thể thay thế.

Trong lễ kết nghĩa giữa Sông Kôn và Đông Giang, lời hát lý và câu nói lý đều hướng về một chủ đề thiêng liêng như mối đoàn kết bền chặt giữa hai cộng đồng. Tình nghĩa vốn hài hòa từ trước nay lại thêm lần nữa được khẳng định, nâng lên thành giao ước văn hóa, cộng đồng. Sau lễ kết nghĩa, hai xã cùng thống nhất giữ mối quan hệ tốt đẹp, tôn trọng, hỗ trợ nhau và nguyện gìn giữ hòa hiếu, không xảy ra bất hòa, đúng với tinh thần núi rừng Cơ Tu: Gắn bó, trong sáng và thủy chung.

p43.jpg
p44.jpg
Đồng bào Cơ Tu hoà mình vào không khí tưng bừng, phấn khởi tại lễ kết nghĩa.

Đến phân cảnh 4, cúng lễ kết nghĩa, sau phần mời rượu và đối đáp nói lý, hát lý, hai bên cùng tiến hành nghi thức báo với Giàng, thần linh, trời đất về việc xác lập mối kết nghĩa lâu bền giữa Sông Kôn và Đông Giang. Lễ vật được bày trang trọng trên mâm cúng, đặt tại lều cúng đã được chuẩn bị từ trước: Đầu heo, gà, cá, xôi, huyết heo, huyết gà, rượu trắng, rượu cần, trà thuốc… Tất cả được dọn đủ, ngay ngắn, thể hiện sự kính trọng đối với linh lực bảo hộ cho cộng đồng.

Sau khi thực hiện thủ tục cúng, hai bên mời rượu cho nhau để Giàng và thần linh chứng kiến từ hai xã đã trở thành bạn bè thân hữu và hứa với Giàng với thần linh sau khi tổ chức lễ hai xã sẽ không để xảy ra bất cứ mâu thuẫn, có khó khăn hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, luôn thể hiện tình keo sơn, đoàn kết, gắn bó. Đồng thời cùng nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.

p5.jpg
Phân cảnh múa trống chiêng, đầy phấn khởi của bà con khi hoàn thnahf lễ kết nghĩa.

Khép lại buổi lễ là phân cảnh múa trống chiêng, âm thanh vang vọng giữa núi rừng như lời chúc mừng, nhịp đập niềm tin cho sự khởi đầu mới. Trống dồn, chiêng ngân, vòng xoay điệu múa rộn rã hòa cùng tiếng hò reo của cộng đồng, tạo nên không gian lễ hội đầy sắc màu. Từ đây hai xã chính thức bước vào mối quan hệ hòa hiếu, bền lâu, được Giàng chứng giám.

Vượt ra khỏi ý nghĩa một nghi lễ truyền thống, lễ kết nghĩa của người Cơ Tu là thông điệp sống đẹp, sống cùng nhau và sống vì nhau. Qua đó góp phần bồi đắp khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, để bản sắc không chỉ được gìn giữ mà còn được lan tỏa trong dòng chảy hiện đại.

Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Có thể bạn quan tâm

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Từ ngày 4 - 6/12/2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức truyền dạy và phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Giẻ Triêng, nhằm mục tiêu bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của nghi lễ đặc trưng này, trong bối cảnh có nguy cơ bị mai một theo thời gian.

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên cũ) nay thuộc các xã: Sông Hinh, Đức Bình, Ea Ly, Ea Bá (tỉnh Đắk Lắk) hiện còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống bản địa đặc sắc, độc đáo. Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, chính quyền địa phương đã nỗ lực phát huy những giá trị đó trở thành điểm nhấn trong dòng chảy văn hóa địa phương, tạo thêm nhiều việc làm mới tăng thu nhập cho người Ê Đê thông qua các đề án phát triển du lịch cộng đồng.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng.