Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận

Diêm dân huyện Ninh Hải, Ninh Thuận thu hoạch muối. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN
Diêm dân huyện Ninh Hải, Ninh Thuận thu hoạch muối. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Ninh Thuận có bờ biển dài hơn 105 km, nước biển có độ mặn cao, năng lượng bức xạ lớn, nhiều nắng, gió...hội tụ những điều kiện lý tưởng để phát triển nghề muối. Tuy vậy, việc làm ra hạt muối vẫn còn nhiều bất cập, cần sớm được tháo gỡ để khai thác tốt nhất tiềm năng vốn có.

Bấp bênh nghề làm muối

Ninh Thuận là địa phương có nghề làm muối truyền thống hàng trăm năm nay và hiện là 1 trong 19 tỉnh thành ven biển có diện tích và sản lượng muối lớn nhất cả nước. Nghề làm muối ở Ninh Thuận tập trung chủ yếu ở các xã Phương Hải, Tri Hải, Nhơn Hải (huyện Ninh Hải); các xã Cà Ná, Phước Diêm, Phước Minh (huyện Thuận Nam).

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 1Diêm dân huyện Ninh Hải, Ninh Thuận thu hoạch muối. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Có hơn 20 năm thâm niên làm muối, diêm dân Nguyễn Văn Được (xã Tri Hải, huyện Ninh Hải) chia sẻ, Ninh Thuận có lợi thế về sản xuất muối do khí hậu khô nóng quanh năm, nước biển bốc hơi kết tinh thành hạt nhanh hơn, hạt muối to, khô ráo. Bà con làm muối theo kiểu truyền thống là đầu vụ tiến hành san phẳng, đầm mặt ruộng để tạo “lớp da đất” sau đó bơm nước biển vào ruộng, đợi nước biển bốc hơi khoảng một tuần lễ thì cào muối. Cứ thế, xong đợt một lại tiếp tục bơm nước biển vào, đợi nước bốc hơi và thu hoạch muối, chỉ tạm dừng sản xuất khi trời mưa, bão.

Ông Được chia sẻ, nhờ thời tiết thuận lợi, vụ này gia đình làm 6 sào muối cho sản lượng thu hoạch trên 8 tấn muối/tuần. Sản lượng cao nhưng giá muối lại thấp, gia đình chỉ bán được với giá 450 đồng/kg, sau khi trừ chi phí coi như hòa vốn, đó là chưa tính công lao động của các thành viên trong nhà. Nghề muối là cái nghề vất vả hoàn toàn phải trông chờ vào thiên nhiên, năm nào nắng đều thì sản lượng khá, nếu mưa rải đều là mất vụ.

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 2Mô hình sản xuất muối trải bạt kết tinh cho năng suất và chất lượng cao. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Ông Trần Thanh vừa là diêm dân sản xuất 3 ha muối, đồng thời cũng là Giám đốc Hợp tác xã sản xuất, kinh doanh muối Khánh Nhơn (huyện Ninh Hải) cho hay, sản lượng tăng thường tỷ lệ nghịch với giá, đây vốn là điệp khúc “được mùa – mất giá” của nhiều sản phẩm nông nghiệp.

Từ đầu năm 2020 đến nay, do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID – 19, các ngành công nghiệp, chế biến thủy sản hoạt động khó khăn nên nhu cầu tiêu thụ muối chậm. Cách làm muối thủ công cho nước biển vào ruộng để kết tinh muối trên đất, sản phẩm sẽ lẫn một số tạp chất không tan; khả năng tích trữ của bà con rất hạn chế; kho chứa muối đa phần tạm bợ trong khi đó nhu cầu cần phải bán ngay để trang trải sinh hoạt nên các thương lái dựa vào để ép mua muối với giá thấp khi vào chính vụ.

Ông Thanh phân tích, để muối bán được với giá cao hơn thì chất lượng muối phải “sạch” – muối ít lẫn tạp chất. Diêm dân làm muối sạch sử dụng công nghệ trải bạt kết tinh. Một đợt làm muối trải bạt kéo dài 7- 10 ngày đủ thời gian để nước biển “đóng hạt” kết tinh hạt muối trắng đẹp, khô ráo. Muối trải bạt có giá bán cao hơn so với muối nền đất do đây là nguồn nguyên liệu sạch để các doanh nghiệp chế biến thành muối tinh chất lượng cao. Tuy nhiên, đầu tư cho sản xuất muối sạch cao, chi phí đầu tư trải bạt khoảng trên 1 tỷ đồng/ha. Do mức đầu tư lớn nên nhiều diêm dân vẫn chấp nhận phương pháp làm muối nền đất.

Dẫn chứng điều này, ông Thanh cho hay gần 200 ha liên kết sản xuất muối của hợp tác xã hiện mới có 3 ha muối áp dụng phương pháp trải bạt. Chưa kể, sau khi hạt muối trải bạt làm ra sẽ phải tiếp tục cạnh tranh đầu ra với muối của các công ty, doanh nghiệp sản xuất với quy mô diện tích, sản lượng lớn hơn gấp nhiều lần.

Chia sẻ về giá muối, bà Nguyễn Thị Thơm, đại diện Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ngọc Hân (huyện Ninh Hải) cho biết, công ty chuyên khai thác, chế biến và kinh doanh các loại sản phẩm về muối biển với sản lượng hơn 20.000 tấn/năm. Lâu nay, mọi người vẫn nói giá muối thấp do thương lái ép giá nhưng thực ra sản lượng muối ở địa phương tiêu thụ được là nhờ các thương lái.

Theo quy luật kinh tế thị trường, mỗi công ty phải tính toán hiệu quả kinh doanh để có phương án thu mua, nếu kinh doanh có lãi mới có thể mua muối với giá cao. Công ty cần nguồn nguyên liệu ổn định để sản xuất nhưng đa phần diêm dân sản xuất muối ở quy mô nhỏ lẻ, chất lượng muối chưa cao nên khó đáp ứng được yêu cầu về sản lượng cũng như chất lượng.

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 3 Sơ chế muối trước khi đưa đi tiêu thụ. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Muối diêm dân sản xuất theo kiểu truyền thống nhỏ, lẻ, thiếu sự liên kết trong sản xuất, không có hợp đồng mua bán khiến giá cả muối lên xuống thất thường, thu nhập bấp bênh nên nhiều diêm dân không còn mặn mà với nghề, diện tích muối cũng giảm dần.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, toàn tỉnh hiện có 3.078 ha đất làm muối, giảm 188 ha so với năm 2019; trong đó bao gồm 2.447 ha muối công nghiệp và 631 ha muối diêm dân. Sản lượng muối 6 tháng đầu năm 2020 của tỉnh đạt 484.864 tấn gồm: muối diêm dân sản xuất đạt 187.576 tấn, muối sản xuất công nghiệp 297.288 tấn. Giá muối diêm dân sản xuất dao động ở mức từ 350 – 600 đồng/kg; muối công nghiệp có giá từ 600 - 1.000 đồng/kg.

Phát triển bền vững nghề muối

Chất lượng và tiêu thụ sản phẩm đang đặt ngành muối của tỉnh Ninh Thuận trước yêu cầu phải đổi mới sản xuất và cần có chiến lược phát triển bền vững. Do vậy, việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất muối gắn với đổi mới công nghệ, đầu tư mới và cải tạo đồng muối để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trên đơn vị diện tích đang là vấn đề cấp thiết đòi hỏi cần có sự phối hợp triển khai đồng bộ từ các Bộ, ngành Trung ương và địa phương.

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 4 Sản xuất muối công nghiệp ở huyện Ninh Hải, Ninh Thuận. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Theo ông Đặng Kim Cương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, để nghề làm muối phát triển bền vững, Ninh Thuận hiện đang tập trung triển khai thực hiện Đề án phát triển ngành muối giai đoạn 2021 – 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại quyết định số 1325/QĐ – TTg (ngày 31/8/2020) và Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu của tỉnh giai đoạn 2020 tầm nhìn đến năm 2030.

Theo đề án phát triển ngành muối của Chính phủ, Ninh Thuận sẽ là vùng trọng điểm tập trung sản xuất muối quy mô công nghiệp ở Nam Trung bộ để đáp ứng nhu cầu cho ngành công nghiệp hóa chất, nguyên liệu cho chế biến muối tinh cao cấp. Đến năm 2030, Ninh Thuận sẽ là địa phương dẫn đầu về quy mô diện tích và sản lượng muối của cả nước.

Theo đó, giai đoạn 2021 - 2030, quy mô diện tích sản xuất muối của tỉnh là 3.267 ha; trong đó, có 3.055 ha muối công nghiệp; sản lượng muối đến năm 2025 đạt 426.500 tấn/năm (muối công nghiệp 385.000 tấn); đến năm 2030 nâng tổng sản lượng lên 650.000 tấn (muối công nghiệp 550.000 tấn).

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 5 Kiểm tra điều kiện muối lưu kho đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Để thực hiện mục tiêu phát triển, đề án phê duyệt danh mục xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất muối công nghiệp hiện có cùng các chương trình nghiên cứu khoa học – công nghệ để chuyển giao vào sản xuất gồm: nghiên cứu, xây dựng mô hình công nghệ cao kết tinh muối ứng dụng hiệu ứng nhà kính theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến. Đồng thời, quy trình xây dựng công nghệ sản xuất muối phơi nước tập trung theo hướng cơ giới hóa gắn với hệ thống cấp nước biển và chế chạt trong quá trình sản xuất muối để ứng dụng cho các đồng muối công nghiệp.

Bên cạnh đó, nghiên cứu cải tạo nền ô kết kinh để thực hiện cơ giới hóa đồng bộ các khâu từ cung cấp nước biển đến thu hoạch, rửa và đánh đống bảo quản muối; thuộc các dự án ưu tiên đầu tư với tổng vốn đầu tư gần 320 tỷ đồng từ các nguồn vốn của Trung ương và các nguồn khác.

Để góp phần bảo đảm nhu cầu muối công nghiệp cho cả nước, ngành nông nghiệp tỉnh đang khẩn trương phối hợp với các đơn vị liên quan, các địa phương rà soát, xây dựng các kế hoạch phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ muối. Đối với sản xuất muối công nghiệp, tham mưu UBND tỉnh có các chính sách ưu tiên phát triển doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại gắn với chế biến đa dạng các sản phẩm sau muối để gia tăng giá trị sản xuất.

Đổi mới sản xuất và có chiến lược phát triển bền vững nghề muối ở Ninh Thuận ảnh 6 Ninh Thuận đẩy mạnh chế biến các sản phẩm từ muối để nâng cao giá trị gia tăng. Ảnh: Nguyễn Thành – TTXVN

Đồng thời hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư, cải tạo nâng cấp hệ thống kho bảo quản muối, bảo đảm muối dự trữ phục vụ sản xuất kinh doanh, mua tạm trữ muối; hỗ trợ đầu tư hệ thống thiết bị chế biến, phân tích chất lượng muối, mẫu mã, bao bì cho các cơ sở sản xuất chế biến muối vừa và nhỏ để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Đối với sản xuất muối thủ công, Ninh Thuận huy động các nguồn lực từ các chương trình khuyến nông, khuyến diêm để hỗ trợ bà con đẩy mạnh đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mở rộng diện tích sản xuất muối trải bạt kết tinh để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất muối sạch; thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác để hỗ trợ diêm dân trong cung ứng vật tư, bao tiêu sản phẩm.

Bên cạnh đó, Ninh Thuận tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, các đơn vị nâng cao năng lực dự báo nhu cầu thị trường, cân đối cung cầu muối để có kế hoạch sản xuất phù hợp; đẩy mạnh hỗ trợ xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm sau muối, kết hợp tăng cường xúc tiến thương mại giới thiệu sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ muối nhằm góp phần đảm bảo sinh kế, nâng cao thu nhập cho diêm dân.

Nguyễn Thành

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.