Kỹ thuật nuôi ngao

Kỹ thuật nuôi ngao
Ảnh minh họa - TTXVN
Ảnh minh họa - TTXVN

1. Lựa chọn bãi giống

Bãi giống được lựa chọn ngoài việc dựa trên các kinh nghiệm, còn có thể lựa chọn bãi giống theo các điều kiện sau:

- Bãi giống có thể là bãi ngao trưởng thành hoặc gần bãi ngao trưởng thành.

- Đáy là cát bùn (trong đó cát chiếm 70 – 80%).

- Nước triều lên xuống đều, không phơi đáy quá 4 giờ/ngày, độ mặn trung bình từ 15 - 25‰, có lượng nước ngọt nhất định đổ vào.

- Bãi có độ sâu nhất định trong toàn vùng bãi triều, có thể là vùng nước quẩn: ấu trùng ngao trong giai đoạn sống phù du chịu ảnh hưởng rất lớn của dòng chảy, thông thường theo chiều của dòng thuỷ triều, ấu trùng thường bị cuốn đi xa so với bãi đẻ. Đó chính là lý do khi thấy con giống tập trung theo bãi.

Ngoài ra, còn có thể lựa chọn bãi giống tại một vị trí nhất định, có bờ chắn lũ, đắp các bờ có bề rộng từ 30 – 40cm, cao 40cm song song với bờ chắn lũ, chia các ngăn thành từng ô nhỏ, có thể dùng lưới hoặc cây gỗ để làm giảm lưu tốc nước của thủy triều.

Đối với các bãi giống đã được lựa chọn cần có biện pháp quản lý thích hợp như thường xuyên kiểm tra bờ bãi, chống nóng, không cho người đi vào, chống nóng.

2. Phương pháp thu con giống

Có thể chia làm 2 phương pháp thu con giống như sau:

2.1 Phương pháp lấy giống khô

Khi nước triều rút cạn, dùng cào cào cả cát và giống tập trung vào giữa các ô nhỏ đã được chia, trong trường hợp ngao giống vùi sâu có thể cào tiếp lần nữa vào kỳ nước triều rút lần tiếp theo. Đào một hố nhỏ sâu 20cm, chiều dài 3m và chiều rộng khoảng 2m ngay bên cạnh ô giống. Khi nước triều lên, ngao giống sẽ tập trung lên bề mặt trên để lọc thức ăn, dùng sàng hoặc rổ có cỡ mắt sàng thích hợp rửa sạch cát ở nơi hố đào bên cạnh.

Trong trường hợp mặt bãi khô, dùng cào 4 răng lật cả cát và ngao giống lên, cho ít nước vào đánh tan thành bùn, đợi ngao giống bò lên mặt bùn rồi thu con giống.

2.2 Phương pháp thu giống nước nông

Khi nước triều cạn, dùng cào ngao cào cả cát và con giống tập trung ở giữa bãi thành một đống hình tròn có đường kính khoảng 6m. Sau đợt triều rút lần sau dùng cào phân ở giữa bãi giống đã tập trung thành một ô trống có đường kính 3 m, sâu 30 cm.

Trong đợt triều lần sau, khi nước triều rút chỉ còn khoảng 1 m, dùng chân đạp nước xung quanh bãi giống, ngao giống kiếm ăn ở mặt ngoài quanh đống giống do bị dòng nước kích thích sẽ tập trung ở ô trống ở giữa. Dùng sọt tre để với giống. Khi nước triều còn rất thấp, tiếp tục dùng tay vỗ nước quanh đống giống để ngao giống tập trung tiếp vào ô trống ở giữa để vớt con giống lên thuyền.

3. Kỹ thuật nuôi ngao thương phẩm

3.1 Chọn bãi nuôi

Ngao có thể sống được ở vùng trung, hạ triều đến nơi có độ sâu 5 – 10m, bãi nuôi được lựa chọn là bãi triều, các eo vịnh có sóng gió nhỏ, nước triều lên xuống, nơi có nguồn nước ngọt nhất định chảy vào. Đáy là cát bùn (trong đó cát chiếm 70 – 80%), độ mặn dao động trung bình từ 15 – 25‰, thời gian phơi bãi không quá 4 – 5 giờ/ngày.

3.2 Chuẩn bị bãi nuôi

3.2.1 Quây lưới quanh bãi nuôi

* Nguyên liệu:

- Lưới xăm cũ (không bị rách) loại Polyetylen, cỡ mắt lưới 2a ≤ 1cm, cao ≤ 80cm.

- Cọc tre hoặc cành cây, ngọn phi lao hay các loại cây khác có tại địa phương với đường kính kích cỡ ≤ 0,5cm, dài 1m.

- Cọc tre hoặc gỗ loại lớn

* Trình tự quây lưới

- Lưới sẽ vùi dưới mặt đất 30 cm và dùng các cọc nhỏ nâng lưới lên so với mặt bãi từ 60 - 70cm. Cứ 1,5m cắm 1 cọc loại nhỏ và 10m cắm một cọc loại lớn để giăng lưới, lưói dựng hơi ngả vào trong mặt bãi.

3.2.2 Cải tạo mặt bãi

- Làm vệ sinh mặt bãi, thu gom tất cả những vật lạ như: đá sỏi lớn, mảnh sành sứ, vỏ hộp lon, bao bì nilong... ra xa khỏi mặt bãi.

- Cày xới mặt bãi: Để ngao con dễ dàng chui xuống sâu, tránh hiện tượng ngao bị cuốn trôi trước khi thả cần phải cày xới mặt bãi. Khi triều rút cạn dùng bừa hoặc cào xới tơi bề mặt bãi khoảng 5 – 10cm, nhặt bỏ đá sỏi trong quá trình cày xới. San phẳng mặt bãi, tránh những vũng lồi lõm có cua cá ẩn nấp làm ảnh hưởng đến ngao nuôi.

Với các vùng có thời gian nuôi trên 3 vụ, chất hữu cơ lắng đọng có thể tăng lên 5 – 6 lần so với bình thường, bề mặt bãi có lớp đất cát đen dày khoảng 2 – 3 cm và có mùi thối của khí H2S nếu chỉ cải tạo bình thường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngao nuôi. Với các trường hợp như vậy, cần lựa chọn thời điểm cải tạo bãi vào mùa nắng, cày lật mặt bãi, phơi khô. Có thể tiến hành phơi đáy nhiều lần nếu cần thiết.

- Đánh luống: Luống có cùng hướng với dòng chảy của nước thuỷ triều khi lên xuống. Mỗi luống rộng 1,5m, giữa hai luống làm một lối đi nhỏ để tránh dẫm lên bãi sau khi thả ngao. Nếu ở các khu vực nuôi ngao có thời gian phơi bãi quá 5giờ/ngày hoặc thời gian phơi bãi kéo dài đặc biệt vào mùa hè cần có biện pháp giữ nước, tạo độ ẩm nhất định cho bãi nuôi. Với các khu vực có điều kiện địa hình như vậy, trong quá trình cải tạo mặt bãi cần cày xới cẩn thận, độ tơi xốp của bề mặt bãi có thể lên tới 20 – 30cm. Nếu luống có bề rộng 1,5m thì cứ 2 đến 3 luống liên tiếp đào một rãnh nhỏ có chiều rộng 50cm, sâu 50 – 70cm. Nếu luống rộng 4 – 5m thì cách mỗi luống cần có một rãnh như vậy.

Căng dây trên mặt bãi để tránh hiện tượng di chuyển đi nơi khác của Ngao.

3.3 Thả con giống và mật độ nuôi

Con giống cần được thu gom khi đạt kích thước tối thiểu từ 0,5 – 1cm.

+ Cỡ giống 5 vạn con/kg thả 100kg/1000 m2

+ Cỡ giống 4 vạn con/kg thả 110kg/1000 m2

+ Cỡ giống 3 vạn con/kg thả 140kg/1000 m2

+ Cỡ giống 2 vạn con/kg thả 180kg/1000 m2

3.4 Quản lý và chăm sóc bãi nuôi

Ngao là loài ăn lọc, thức ăn của chúng là các động thực vật phù du, mùn bã hữu cơ trong môi trường nước cho nên không cần cho ăn trong quá trình nuôi. Tuy nhiên, ngao là đối tượng rất mẫn cảm với sự thay đổi đột ngột của môi trường như: ngọt hoá, nhiệt độ nước quá cao > 320C kéo dài nhiều ngày, nguồn nước bị ô nhiễm: nước thải của các hoạt động công nghiệp, hoá chất tẩy rửa từ ao nuôi tôm công nghiệp... đều gây hiện tượng chết hàng loạt ở ngao nuôi.

Khi gặp điều kiện môi trường bất lợi ngao phản ứng lại bằng cách trồi lên mặt đáy, chúng tiết ra chất nhầy trong suốt như agar, các bọt khí trong quá trình hô hấp bám vào đó tạo thành một cái dù nâng ngao lơ lửng trong nước và được sóng gió đưa đi nơi khác, đó là một cách vận chuyển thụ động của ngao.

Khi thấy hiện tượng ngao trồi lên bề mặt đáy thì nhanh chóng có biện pháp di chuyển kịp thời. Do đó, việc quản lý trong quá trình nuôi là ngăn chặn kịp thời không cho ngao đi mất. Trong quá trình chuẩn bị bãi nuôi, việc căng các dây cước sát mặt đáy nhằm mục đích cắt túi nhầy để ngao rơi xuống bãi.

Khi nước triều rút, nhặt bỏ các rác thải, vỏ ngao chết trong bãi. Thường có hiện tượng chết hàng loạt ở ngao nuôi, do vậy loại bỏ ngao chết nhằm làm giảm ô nhiễm bãi nuôi.

3.5 Thu hoạch

Ngao sau 15 tháng nuôi trở lên có thể tiến hành thu hoạch.

- Mùa vụ thu hoạch ngao ngoài việc chú ý đến chất lượng sản phẩm cũng cần phải quan tâm đến thời gian bảo quan. Thu hoạch ngao vào mùa xuân và mùa thu dễ bảo quan hơn mùa hè khi nhiệt độ cao. Hàm lượng chất dinh dưỡng trong thịt ngao cao vào mùa sinh sản, khi tuyến sinh dục phát triển giai đoạn thành thục. Như vậy, mùa vụ thu hoạch ngao thích hợp nhất vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa thu, đây là thời điểm trùng hợp với mùa vụ sinh sản sản của ngao.

- Phương pháp thu hoạch ngao

Thu hoạch ngao bằng các cọc gỗ: Nhờ tính hướng cọc gỗ của ngao để thu, dùng các cọc gỗ có đường kính 4 – 5cm, dài 50 – 70cm đóng trên mặt bãi, các cọc đóng cách nhau khoảng 1,5m. Sau 1 thời gian ngao sẽ tập trung ở xung quanh cọc gỗ với bán kính khoảng 30cm, lúc này tiến hành thu rất dễ.

Dùng con lăn đá, lăn qua lại trên bề mặt bãi, ngao ở phía dưới do bị ép sẽ phun nước lên, từ chỗ có phun nước có thể bắt ngao. Tuy nhiên, nếu ngao nuôi có mật độ cao thì thu hoạch theo phương pháp này thường không hiệu quả, thời gian thu phải kéo dài.

Khi nước triều rút gần cạn, dùng chân đạp nước, do sức ép của dòng nước ngao sẽ trồi lên mặt bãi.

Theo Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia

Có thể bạn quan tâm

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Với hơn 500 hợp tác xã và hàng nghìn tổ hợp tác đang hoạt động, khu vực kinh tế tập thể ở Vĩnh Long đang chuyển mình mạnh mẽ, trở thành điểm tựa vững chắc cho nông nghiệp bền vững. Từ những mô hình sản xuất hữu cơ, trồng xen đến liên kết “4 nhà”, kinh tế hợp tác không chỉ giúp nông dân nâng cao thu nhập mà còn tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh - hiện đại, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

Sau khi hợp nhất địa giới, Đồng Tháp không chỉ mở rộng về quy mô diện tích, dân số mà còn gia tăng đáng kể lợi thế về phát triển nông nghiệp, nhất là hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản gắn với chế biến và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu.

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Ngày 10/10, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai tổ chức Chương trình triển khai hoạt động truyền thông, hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ tại tỉnh Lào Cai.

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình chăn nuôi dúi của anh Đinh Tiến Hoàng, Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ tổng hợp Hoàng Phát - HB, xóm Cang 3, phường Tân Hòa, tỉnh Phú Thọ, đang đem lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững, cho thu lời hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và biến động thị trường ngày càng phức tạp, nhiều mô hình liên kết hợp tác trong sản xuất – tiêu thụ tại tỉnh Vĩnh Long chứng minh tính hiệu quả bền vững.

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Năm 2025, thành phố Cần Thơ có 3 nông dân được Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là nông dân xuất sắc Việt Nam, trong đó có ông Trần Hồng Quan, ấp Trường Hiệp, xã Trường Long Tây. Với mô hình phát triển kinh tế - nuôi ba ba kết hợp trồng sầu riêng và lúa, nông dân Trần Hồng Quan thu lợi nhuận tiền tỷ mỗi năm.

Tạo cơ chế khuyến khích nông nghiệp hữu cơ

Tạo cơ chế khuyến khích nông nghiệp hữu cơ

Tỉnh Đồng Nai khuyến khích các tổ chức và cá nhân sản xuất, chế biến, kinh doanh nông, lâm, thủy sản thực hiện phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhằm tạo ra sản phẩm an toàn và chất lượng cao, nâng cao giá trị sản phẩm cao gấp 1,5 - 2,0 lần so với sản phẩm nông nghiệp thông thường; đảm bảo an toàn cho người sản xuất, bảo vệ sự đa dạng hệ sinh thái và môi trường; gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững.

Nâng cao hiệu quả cánh đồng lúa 'thông minh'

Nâng cao hiệu quả cánh đồng lúa 'thông minh'

Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với chuyển đổi số, xã Tân Xuân, tỉnh Vĩnh Long tổ chức sản xuất mô hình cánh đồng "thông minh", áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Qua đó, làm thay đổi tư duy, tập quán sản xuất lúa truyền thống của người dân, mang lại hiệu quả tích cực cho bà con, nhất là triển khai chuyển đổi số trong nông nghiệp.

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Tại tỉnh Đồng Nai, nhà nông là hộ dân tộc thiểu số đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đang mang lại hiệu quả vượt trội. Với sự hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước và vai trò cầu nối của Hội Nông dân, nhiều nông dân đã mạnh dạn thay đổi tư duy, từ bỏ lối canh tác truyền thống để tiếp cận các mô hình tiên tiến, mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Về xã Nam Trạch, hỏi ông Bế Văn Mai, ai cũng biết đến vì ông là “vua cam” trên vùng đất đồi này. Ông Bế Văn Mai (xã Nam Trạch, tỉnh Quảng Trị) là một trong những tấm gương tiêu biểu trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Từ ý tưởng nhen nhóm trong đại dịch COVID-19, với bản lĩnh, sự nhạy bén và tinh thần dám dấn thân, chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã gây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục ha, mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.

Phát triển năng lực học sinh miền núi

Phát triển năng lực học sinh miền núi

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy, học, kiểm tra đánh giá, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phát triển phẩm chất, năng lực học sinh... Đây là đánh giá được đưa ra tại Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn tổ chức ngày 19/9.

Hỗ trợ nông dân phòng trừ sâu hại cây dừa bằng biện pháp sinh học

Hỗ trợ nông dân phòng trừ sâu hại cây dừa bằng biện pháp sinh học

Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long đang tích cực triển khai hướng dẫn nông dân về biện pháp sinh học để phòng trừ các đối tượng sâu hại cây dừa; đặc biệt là sâu đầu đen và bọ cánh cứng, hai loại gây hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng vườn dừa.

Bẫy chuột bằng điện ở ruộng lúa tiềm ẩn nguy hiểm

Bẫy chuột bằng điện ở ruộng lúa tiềm ẩn nguy hiểm

Vụ Mùa 2025, tỉnh Hưng Yên gieo cấy trên 95.000 ha lúa, đang bước vào giai đoạn làm đòng, trổ bông, cũng là thời điểm bị chuột phá hoại nhiều. Tại một số địa phương xuất hiện tình trạng người dân dùng điện để bẫy chuột tiềm ẩn nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của con người.

Làm việc thời vụ tại nước ngoài, mở ra cơ hội thoát nghèo​

Làm việc thời vụ tại nước ngoài, mở ra cơ hội thoát nghèo​

Thực hiện thí điểm đưa lao động sang Hàn Quốc làm việc thời vụ, giai đoạn 2023-2025, tỉnh Đắk Lắk đã cử gần 700 lượt lao động xuất cảnh, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và ngư nghiệp. Chương trình bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, góp phần tạo sinh kế, giảm nghèo cho nhiều hộ dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.

Trồng na trên núi giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo

Trồng na trên núi giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo

Nhiều hộ dân tại tỉnh Lạng Sơn đã đưa cây na về trồng trên các vùng đồi, núi đá. Loài cây này phát triển mạnh, đơm hoa kết trái, tạo nên thương hiệu na xứ Lạng nổi tiếng khắp nơi, mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội, giúp đời sống đồng bào các dân tộc nơi đây ngày càng ấm no, đủ đầy. Nhờ cây na, nhiều gia đình không chỉ thoát nghèo mà vươn lên trở thành những triệu phú vùng quê, có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống…

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Thực hiện Kế hoạch 100 ngày cao điểm triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số” của tỉnh Đắk Lắk, Tổ công nghệ số cộng đồng Buôn Alê B, phường Ea Kao đang hoạt động hết “công suất” để tuyên truyền đến từng bà con buôn làng về chủ trương chuyển đổi số và thực hành làm thủ tục hành chính trên môi trường số.

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Tận dụng diện tích mặt nước rộng, hệ sinh thái thuận lợi của lòng hồ thủy điện An Khê - Kanak, nhiều hộ dân tại xã Cửu An, tỉnh Gia Lai đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè. Mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế địa phương.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Những năm gần đây, Trường Đại học Trà Vinh có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nâng cao hiệu quả sản xuất.

Thầy Danh Mến, giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ, đứng lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng TP. Cần Thơ, với sự hỗ trợ của màn hình LED hiện đại

Ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy tại Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ

Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ (thành phố Cần Thơ) đang tích cực chuyển đổi số, đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lý đào tạo thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà trường đã kết hợp kho học liệu điện tử hiện đại với giáo trình giấy truyền thống, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tăng sinh và học viên, đồng thời phát huy ngôn ngữ Pali - Khmer trong bối cảnh chuyển đổi số.

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

Chất lượng chính là mẫu số chung trong mọi giải pháp phát triển chanh leo. Từ giống cây, quy trình canh tác, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu - mỗi khâu đều đòi hỏi tiêu chuẩn cao, minh bạch và đồng bộ.

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Từ những luống gừng xanh tốt trên cao nguyên đá nơi địa đầu Tổ quốc, đồng bào Mông và Giáy ở Lũng Cú (tỉnh Tuyên Quang) đã mạnh dạn thay thế cây ngô kém hiệu quả, biến cây trồng quanh nhà thành cây kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Cây gừng bản địa không chỉ mở ra hướng thoát nghèo bền vững cho đồng bào vùng cao mà còn từng bước xây dựng thương hiệu, hướng tới sản xuất bền vững, gia tăng giá trị.