Mô hình luân canh tôm-lúa-tôm càng xanh

Mô hình luân canh tôm-lúa-tôm càng xanh
Kiểm tra độ phát triển của tôm sú. Ảnh : 2lua.vn
Kiểm tra độ phát triển của tôm sú. Ảnh : 2lua.vn

Duy trì mực nước ao nuôi đối với mặt ruộng và mương hoặc ao.

Mô hình này khác với cách nuôi quảng canh truyền thống trong thiết kế mương, bờ bao và trảng trồng lúa, vuông nuôi với diện tích trung bình khoảng 1 ha /hộ. Đối tượng tôm nuôi vẫn chủ yếu là tôm sú, tôm được nuôi trong mùa khô và chỉ thả tôm giống nhân tạo với mật độ 5 – 10 con/m2, chỉ có thức ăn công nghiệp được sử dụng trong suốt quá trình nuôi, năng suất thu hoạch đạt 400 – 800kg/ha/năm. Trong khi đó, vụ sản xuất lúa trong mùa mưa có thể đạt được năng suất 5 – 6 tấn/ha.

Tuy nhiên hệ thống canh tác tôm - lúa tại Sóc Trăng vẫn còn những khó khăn, hạn chế về cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, thiết kế công trình vuông nuôi, thả tôm giống và chăm sóc, quản lý. Ông Dương Thành Quang ở xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên, cho biết: “Mỗi năm, sau khi nuôi 1 vụ tôm sú thì bà con cải tạo lại đất để trồng lúa. Còn những ao nuôi tôm sâu quá thì bà con không thể lấp lại vụ lúa, mà phải chọn con giống khác thả nuôi. Với nuôi tôm thẻ thì 1 năm bà con nuôi 2 vụ nhưng vẫn kịp lấp lại vụ lúa. Vì tôm thẻ nuôi thời gian ngắn hơn tôm sú”.

Trước thực trạng khó khăn trong canh tác tôm lúa hiện nay, nhất là tác động của biến đổi khí hậu những năm qua đã ảnh hưởng đến hiệu quả của luân canh tôm- lúa, dựa trên cơ sở kết quả khảo sát thực địa của nhóm chuyên gia và cuộc họp với nhóm kỹ thuật địa phương đã đề xuất một số cải tiến kỹ thuật cho mô hình tôm lúa đạt hiệu quả cao hơn. Ông Nguyễn Minh Khải, Phó Trạm Khuyến nông huyện Mỹ Xuyên, cho biết:“Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động bà con tuân thủ việc lấp lúa trên nền tôm. Về phía Phòng Nông nghiệp và ngành chuyên môn đã xây dựng các mô hình giúp người dân tăng thêm thu nhập trên diện tích nuôi tôm như nuôi tôm càng xanh xen lúa trên nền đất nuôi tôm. Còn về canh tác lúa thì triển khai mô hình theo hướng sản xuất lúa hữu cơ trên nền đất nuôi tôm để từng bước xây dựng thương hiệu lúa thơm – tôm sạch của huyện Mỹ Xuyên”.
Cải tạo ao nuôi tôm trên nền trồng lúa. Ảnh : .2lua.vn
Cải tạo ao nuôi tôm trên nền trồng lúa. Ảnh : .2lua.vn

Nuôi tôm trong ruộng lúa là hình thức canh tác kết hợp giữa trồng trọt và thủy sản. Phương thức nuôi này không những làm giảm việc tranh diện tích sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập trên một mảnh đất, nuôi tôm trong ruộng lúa, không làm giảm năng suất lúa mà còn có sản phẩm tôm. Để áp dụng trước tiên cần đáp ứng điều kiện về công trình nuôi tôm và trồng lúa.

Công trình được chuẩn bị từ đầu vụ vào mùa khô khoảng tháng 1, tháng 2 dương lịch sau khi thu hoạch lúa. Hệ thống công trình hoàn chỉnh gồm ao lắng, ao ương, ruộng nuôi, cống cấp thoát, nơi chứa bùn thải. Bờ bao phải chắc chắn không rò rỉ, rộng đáy mương 2 – 3m, độ sâu mực nước 1 m trở lên, nước trên trảng 0,5m trở lên.

Để thích hợp cho việc xen canh đối tượng tôm trên ruộng lúa cần xây dựng mặt trảng thành từng luống, có mương xẻ để diện tích cho tôm được mở rộng thông thoáng, thuận tiện cho tôm phát triển giai đoạn tôm lên ruộng cũng như thao tác trong quá trình chăm sóc lúa.

Ao ương, ruộng nuôi tôm sú được cải tạo từ đầu vụ, ao ương tôm càng xanh được cải tạo khoảng tháng 5 – 6 dương lịch (có thể sử dụng ao ương tôm sú cải tạo lại để ương tôm càng xanh chuẩn bị nguồn tôm lóng cho vụ nuôi tôm càng trên ruộng lúa).

Quy trình cải tạo được thực hiện như sau:

- Ao mới đào: ngâm rửa nhiều lần, bón lót vôi từ 50 – 100kg tùy theo pH đất, phơi đất.

- Ao cũ: sên vét bùn đáy ao mương, sửa cống, bọng đầm nén bờ tránh rò rỉ nước.

Lưu ý: sau khi thu hoạch lúa dọn sạch gốc rạ cho nước vào ngâm cho rạ mục rồi bơm cạn, phơi ruộng đến nức châm chim thì bón lót vôi.

- Rải vôi lúc đất còn ẩm, rải lúc sáng sớm trởi ít gió

- Bón nhiều vôi ở nơi còn úng ngập nước

- Ruộng nhiều phèn không phơi ao quá khô

- Chú ý diệt ốc, tôm, tép tạp trong lúc cải tạo phơi ao

- Ao ương cần được cải tạo kỹ càng hơn.

Đầu vụ nuôi tôm sú khi ngành chức năng và quản lý địa phương có thông báo lịch thả giống thì môi trường nước công cộng đã đạt yêu cầu về độ mặn và các chỉ tiêu khác về môi trường, mầm bệnh. Chọn con nước rong, nước lớn có độ mặn phù hợp, lấy nước vào ao lắng, ruộng nuôi và ao ương. Nước được lấy thông qua túi lọc, càng lọc kỹ càng tốt để tránh tôm, tép, cá tạp.

Diệt tạp sau khi lấy nước đầy ao lắng, ao ương, ruộng nuôi liên tiếp khoảng 3 – 5 ngày sử dụng một trong các phương pháp sau đây:

-  Thuốc cá dây: 10 – 15 kg/1.000m3 nước (độ mặn thấp)

-   Saponin: 10 – 15 kg/1.000m3 (độ mặn >= 8%)

Diệt khuẩn

-  Thuốc tím:  3 – 5 kg/1.000 m3 nước

-  Iodin: 1 lit/1 – 2.000 m3 nước

Gây màu tạo thức ăn tự nhiên:

Sau 5 – 7 ngày diệt khuẩn tiến hành gây màu tạo thức ăn tự nhiên ban đầu cho tôm:

+ Hỗn hợp cám mịn – bột đậu nành – bột cá lạt (tỷ lệ 1:1:1), 3 – 5 kg/1.000 m3 nước nấu, ngâm ủ (18 – 24h) với vi sinh thuộc nhóm Bacillus spp, sử dụng trước khi thả giống 7 ngày, 3 ngày và 1, 3, 5 ngày liên tục sau khi thả giống.

+ Phân vô cơ: NPK, DAP liều từ 1 – 3 kg/1.000 m3 kết hợp bón vi sinh (B.subtilis, Nitro somonas, nitro bacter…) liều cao để tạo nguồn vi khuẩn có lợi phát triển trong ao và nền đáy giúp phân hủy hữu cơ và đối kháng vi khuẩn gây bệnh phát sinh trong môi trường ao nuôi.

+ Bổ sung thêm vôi Dolomite, canxi carbonat, khoáng đa và vi lượng hỗ trợ cho sự phát triển của tảo và ổn định các yếu tố môi trường.

Kiểm tra các yếu tố môi trường trước khi thả giống: Độ mặn từ 3 ‰ trở lên; Độ trong 3 – 3,5 tấc; pH: 7.5 – 8.5;Độ kiềm 80 – 120 mg/L.

Sau khi thả tôm thì việc chăm sóc, quản lý vô cùng quan trọng, nhất là khâu cung cấp thức ăn và quản lý môi trường ao nuôi:

Ao nuôi tôm. Ảnh : 2lua.vn
 Ao nuôi tôm. Ảnh : 2lua.vn

Đối với tôm sú: Tháng đầu tiên: cho ăn thức ăn công nghiệp, mỗi ngày từ 2 – 3 cử, lượng thức ăn trong ngày đầu 1 kg/ 100.000 con giống. Lượng thức ăn tăng tính trên 100.000 con giống thả. Tuần 1 tăng 100 gr/ngày; tuần 2 tăng 200 gr/ngày; tuần 3 và 4 tăng 300 gr/ngày.

Nếu nuôi tôm sú ở mật độ thấp <= 3 con/m2 trong điều kiện chuẩn bị ao tốt (gây màu tạo thức ăn tự nhiên) có thể không cần cho ăn trong 10 – 15 ngày đầu, tuy nhiên cũng cần tập cho tôm quen dần thức ăn công nghiệp nên cho tôm ăn ít trong những ngày đầu mới thả.

Sau 10 ngày thả, đặt sàn để kiểm tra tỉ lệ sống của tôm, cho một ít thức ăn vào sàn để tôm quen dần, thường thì khoảng 20 ngày tôm quen sàn và ăn hết thức ăn trong sàn khi tôm được 30 ngày tuổi. Từ tháng thứ 2 trở đi: cho tôm ăn 4 – 5 cử/ngày, lượng thức ăn được tính toán dựa vào thời gian tôm ăn hết sàn.

Đối với tôm càng xanh: Việc quản lý cho ăn nên bắt đầu từ giai đoạn thả ương, tôm thuộc loại háo ăn, khi thiếu thức ăn tôm ăn thịt lẫn nhau sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, tập tính tôm ăn mạnh vào chiều tối cần lưu ý để tôm sử dụng tốt thức ăn. Tôm không có nhu cầu độ đạm cao nên sử dụng tốt thức ăn công nghiệp cho tôm thẻ, giai đoạn tôm lên ruộng sử dụng tự nhiên là chủ yếu khi mật độ thưa 0,5 – 1 con/m2, tuy nhiên cũng cần bổ sung thêm thức ăn tự chế hoặc thức ăn công nghiệp để tôm được ăn no đầy đủ.

Quản lý môi trường ao nuôi: Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường để điều chỉnh cho thích hợp sẽ giúp tôm khỏe, lớn nhanh, phòng tránh bệnh: pH kiểm tra 2 lần/ngày; độ kiềm: kiểm tra 3 ngày/lần; kiểm tra các khí độc thường xuyên…

Duy trì mực nước 0,5 m trở lên đối với mặt ruộng và 1 m trở lên đối với mương hoặc ao. Nước cấp thêm phải được lắng, lọc, xử lý từ ao lắng, không cấp nước trực tiếp từ sông, rạch vì dễ bị nhiễm bệnh và số tôm. Theo Thạc sĩ Lâm Ánh Tiên, Phó Phòng Kỹ thuật – Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng: “Mô hình tôm – lúa có đặc điểm là phải đảm bảo thời gian nuôi tôm nước lợ sao cho đạt giá trị thương phẩm, nhưng bà con phải kết thúc vụ nuôi và rửa mặn để lấp lại vụ lúa vào tháng 10 mỗi năm. Do đó, bà con phải thả tôm giống nước lợ khoảng tháng 3, tháng 4, cần phải chuẩn bị 1 ao ương dưỡng con giống. Sau khi sang tôm ương dưỡng qua ao nuôi thì ao ương dưỡng này cải tạo lại để ương dưỡng giống tôm càng xanh nhân tạo, để khi nền ao nuôi tôm lấp lại vụ lúa thì bà con đưa tôm càng xanh vào nuôi trong ruộng lúa”.

Thu hoạch:

Đối với tôm sú: sau thời gian nuôi 5 – 6 tháng, tôm đạt kích cỡ 30 – 35 con/kg thì có thể thu hoạch, nên thu hoạch khi tôm cứng vỏ, nếu thấy vỏ tôm lột nhiều thì khoảng 7 – 8 ngày sau mới thu hoạch, trong thời gian này thường xuyên bón vôi để tôm chắc, khỏe, vỏ bóng đẹp sẽ nặng cân.

Đối với tôm càng xanh: thu hoạch vào tháng 1 năm sau, sau mùa thu hoạch lúa, tôm nuôi được 6 – 8 tháng, đạt kích cỡ 8 – 15 con/kg (loại 1 và loại 2). Tôm bán được giá khi sống (tôm oxy) vì vậy cần liên hệ mối lái trước khi có quyết định thu hoạch tôm. Chuẩn bị vèo trong ao, thu tôm thả vào vèo để chủ động khi bán tôm sống.

Đối với lúa: thu hoạch vào khoảng tháng 1 dương lịch, trước khi thu hoạch nên rút nước xuống mương để không ảnh hưởng đến tôm nuôi, rút nước từ từ nhiều ngày để tôm rút về được mương bao, kiểm tra tôm dưới mương nếu thấy tôm nằm nhiều thì tiến hành thu hoạch lúa.
Theo : 2lua.vn

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.