Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4: Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tại Quảng Ngãi

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4: Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tại Quảng Ngãi

Chiều 20/4, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách năm 2022. Hoạt động hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4.

Gần 100 cán bộ, viên chức đang công tác trong lĩnh vực thư viện của 9 huyện, thị xã, thành phố gồm Tư Nghĩa, Bình Sơn, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn Tịnh, thị xã Đức Phổ, Minh Long và Nghĩa Hành tham gia Hội thi. Các đội đã chọn giới thiệu cuốn sách hay về các Anh hùng, Liệt sỹ, những nhân vật lịch sử, người có công với cách mạng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp -Vị tướng của hòa bình, 10 cô gái Ngã 3 Đồng Lộc, Sống mãi trên quê hương anh hùng…

Hội thi nhằm triển khai sâu rộng phong trào đọc sách, quảng bá sách, lưu giữ sách trong nhân dân; tạo điều kiện để cán bộ, viên chức ngành Thư viện trong tỉnh học hỏi, giao lưu, góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục thẩm mỹ và kỹ năng lựa chọn sách để phục vụ chuyên môn và giới thiệu sách đến với bạn đọc. Những huyện miền núi chọn giới thiệu sách viết về văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số như Văn hóa cổ truyền dân tộc Cor hay Sách ảnh người HrêViệt Nam.

Các phần thi diễn được đầu tư cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện, giúp người xem cảm nhận việc đọc sách có nhiều điều thú vị, hấp dẫn và lôi cuốn.

Trước đó, các đoàn đã hoàn thành phần thi xếp sách nghệ thuật. Qua tư duy sáng tạo, khéo léo, đầy tính nghệ thuật, các cán bộ thư viện đã hoàn thành nhiều mô hình sách hay, độc đáo, ấn tượng với nhiều chủ đề phong phú.

Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tỉnh Quảng Ngãi năm 2022 hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam nhằm xây dựng và phát triển phong trào đọc sách trở thành nếp sống trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hội thi tạo cơ hội trao đổi để cán bộ, viên chức ngành thư viện có thêm kiến thức, kinh nghiệm phục vụ tốt hơn hoạt động thư viện.

Đinh Hương

(TTXVN)
Dân tộc Co

Tên tự gọi: Cor, Col.

Tên gọi khác: Cua, Trầu.

Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.

Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.

Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.

Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.

: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.

Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.

Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...

Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.

Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...

Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.

Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.

Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.

Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Co
Dân tộc Hrê

Tên tự gọi: Hrê, trước kia thường gắn với tên sông sở tại như: "người Krê" - sông Krế ở Sơn Hà; "người Hrê" - sông Hrê ở Ba Tơ; "người nước Ðinh" - sông Ðinh ở An Lão)...

Tên gọi khác: Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Mọi Sơn Phòng, Mọi Ðá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.

Dân số: 127.420 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (Ngữ hệ Nam Á). Từ thời kỳ trước năm 1975, chữ viết ra đời bằng cách dùng hệ thống kí tự La-tinh để phiên âm, được sử dụng rộng rãi, nhưng nay đã bị mai một.

Lịch sử: Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.

Hoạt động sản xuất: Phần lớn người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ yếu nhờ rẫy. Lối canh tác rẫy phát - đốt - chọc trỉa, với bộ nông cụ đơn giản gồm rìu, dao quắm, gậy chọc lỗ, cái nạo cỏ, khi thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Cách thức làm ruộng tương tự như ở người Việt vùng nam Trung bộ (dùng cày, bừa có đôi trâu kéo, biết gieo mạ và cấy, dùng liềm và vằng để gặt...) nhưng còn thấy dấu vết của tập quán trồng lúa rẫy.

Từng gia đình thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công chỉ có đan lát và dệt vải nhưng nay cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn ở vài nơi. Việc giao lưu hàng hoá thường theo hình thức trao đổi vật trực tiếp. Hái lượm, săn bắt và đánh cá cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho mỗi gia đình.

Ăn: Người Hrê thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ tết có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những thứ kiếm được và muối ớt, khi có cúng bái thì thịt con vật hiến sinh được dùng làm đồ nhắm và cải thiện bữa ăn. Thức ăn đựng trong các vật làm bằng mo cau. ¡n bốc. Thức uống có nước lã, nước chè xanh, rượu cần (nay rượu cất khá thông dụng). Tập quán hút thuốc lá và ăn trầu cau phổ biến.

: Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Nhà sàn có cửa ra vào ở mỗi đầu và một mặt bên, có 2 hàng cột tạo thành 2 vì cột, trên đỉnh đốc có hình cặp sừng thú, vách nghiêng phía trên ra ngoài. Mặt sàn thường hơi cao một chút về bên không đặt bếp đun, nhằm tạo thế nằm thoải mái: chân thấp hơn đầu. Nhà ở trong làng đều dựng ngang triền đất dốc, tránh để đòn nóc chĩa hướng chắn ngang dòng chảy của sông suối.

Ngày nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Việt: tuy nhiều phụ nữ còn dùng váy nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc không tạo thành hai tầng như xưa.

Mặc: Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, chít khăn, khi dự lễ hội hoặc đi xa thì mặc áo; đàn bà có váy ống mặc kiểu hai tầng. Có áo, khăn trùm đầu. Những vòng đeo trang sức làm bằng đồng bạc, nhôm và chuỗi cườm; riêng nam giới không trang sức ở tai.

Phương tiện vận chuyển: Người Hrê quen dùng gùi sau lưng, mỗi quai gùi quàng giữ vào một vai: chở thóc gạo thì dùng gùi đan dày, chở củi, sắn thì có gùi mắt thưa, đàn ông đi rừng hay đi trận có riêng loại gùi như chiếc túi hoặc gùi ba ngăn. Ngoài ra, người Hrê còn gánh lúa khi gặt và đội đồ vật trên đầu.

Quan hệ xã hội: Già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Trước kia sự phân hoá xã hội đã khá sâu sắc, chế độ tôi tớ - đặc biệt là đi ở vì nợ - có phần khắc nghiệt hơn nhiều tộc Thượng khác, hiện tượng tranh chiếm và tập trung ruộng đất (theo đó là sự xác lập quyền thế của một số cá nhân) đã tương đối phát triển. Tuy vậy, quan hệ trong làng vẫn thể hiện tinh thần cộng đồng công xã.

Cưới xin: Cư trú phía chồng hay phía vợ là tuỳ thoả thuận giữa hai gia đình, phần đông sẽ dựng nhà ở riêng sau khi có con đầu lòng. Ðám cưới có nghi thức dâu và rể kết gắn với nhau thông qua việc trao bát rượu, miếng trầu cho nhau hay quàng chung một vòng dây sợi... Vợ goá có thể lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung mẹ hoặc cha đều không được lấy nhau.

Sinh đẻ: Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có là đỡ hộ sinh, cắt rốn bằng dao, cái rau được gói trong mo cau rồi đem bỏ trong rừng hoặc chôn cạnh nhà. Sản phụ nghỉ ngơi vài chục ngày, kiêng ăn cá niêng, trứng, chuối, thịt gà trắng... Ðứa bé đầy tháng mới làm lễ đặt tên.

Ma chay: Quan tài độc mộc có dáng hao hao chiếc thuyền. Người chết được quàn tại nhà từ 1 đến 3 ngày rồi chôn trong bãi mộ của làng. Mộ đắp thành gò dài trên dựng nhà mồ có nóc mái làm như nhà ở. Tang gia "chia của" tựa hồ cho người chết đi ở riêng: từ đồ ăn thức uống cho đến vật dụng trong nhà, từ trang phục, công cụ lao động... đều có ở mộ.

Thờ cúng: Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo trỉa và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn... đều cúng bái. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an, tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình.

Lễ tết: Lễ hội có đâm trâu là lớn nhất, dù đó là lễ của làng hay một nhà cũng đông vui. Hàng năm, người Hrê ăn tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo tết Nguyên đán. Ngày tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khoẻ cho mọi người trong nhà; có bánh gói bằng gạo nếp, rượu, thịt... Dịp tết làng làm lễ cúng tập thể cầu mong mưa thuận, đủ nước.

Lịch: Cách tính tương tự âm lịch của người Việt. Trong tháng, phân biệt ngày tốt, ngày xấu và chọn ra những ngày nên làm việc này, không nên làm việc kia.

Văn nghệ: Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Hrê

Có thể bạn quan tâm

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày 13/12/2025, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) diễn ra Ngày hội văn hoá Mông 2025. Sự kiện do doanh nghiệp Xã hội CRAFT LINK tổ chức quy tụ 8 nhóm Mông đến từ Cao Bằng, Lào Cai, Tuyên Quang, Điện Biên, Phú Thọ, Nghệ An với những trưng bày đặc sắc về trang phục, hoa văn và nghề thủ công truyền thống, nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa, nghề thủ công truyền thống và đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng người Mông trên cả nước.

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Nằm trong vùng lõi của Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, làng nghề dệt thổ cẩm thôn Lặn Ngoài (xã Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa) đang trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế bởi những câu chuyện văn hóa qua từng khung cửi. Ở đó, bên nếp nhà sàn, những người phụ nữ dân tộc Thái mỗi ngày cần mẫn đưa thoi, dệt nên những nét hoa văn đặc trưng của núi rừng Pù Luông.

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Ngày 12/12, UBND xã Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) tổ chức Lễ công bố quyết định và đón nhận Giấy chứng nhận Di sản văn hóa Phi vật thể quốc gia “Lễ mừng cơm mới của người Si La” và tổ chức Lễ hội mừng cơm mới năm 2025 tại bản Nậm Sin.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Tối 11/12, tại nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức khai mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Dân tộc Chứt ở tỉnh Quảng Trị hiện có 2.054 hộ với 8.227 nhân khẩu, sinh sống tập trung chủ yếu tại các xã Kim Phú, Kim Điền, Tuyên Lâm, Dân Hóa và Thượng Trạch. Tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực bảo tồn các nét văn hóa dân tộc Chứt thông qua việc xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa dân gian, mở ra hướng phát triển du lịch văn hóa vùng biên.

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Trong tiết trời se lạnh của buổi sớm mai nơi vùng cao Na Son (Điện Biên), chợ phiên Keo Lôm bừng lên sức sống khi đồng bào các dân tộc mang nông sản, sản vật rừng xuống chợ trao đổi, mua bán. Phiên chợ được họp vào ngày thứ 7 hàng tuần, không chỉ là nơi giao thương quen thuộc của người dân địa phương mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn để du khách khám phá, trải nghiệm những nét văn hóa đặc trưng của vùng cao Điện Biên.

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi những ngọn núi trùng điệp xanh mướt nối tiếp nhau trập trùng, có những bản làng bình yên của người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống bao đời nay. Ở nơi đây, tiếng hát, tiếng đàn, điệu khèn vẫn ngân vang mỗi buổi sớm, chiều. Giữa nhịp sống hiện đại, vẫn có những con người thầm lặng, bền bỉ cống hiến cả cuộc đời để bảo tồn tiếng hát, điệu múa, tiếng cồng chiêng và linh hồn của núi rừng quê hương. Đó chính là cội nguồn, bản sắc độc đáo riêng của dân tộc không thể nào bị lãng quên.

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

Trước nguy cơ mai một của một trong những di sản văn hóa độc đáo, dự án “Dáng giày nét Giáy” do InterArts Agency thực hiện đã mang đến một hướng tiếp cận mới mẻ thông qua chuỗi hoạt động trải nghiệm thực tế. Nổi bật trong số đó là workshop làm giày thủ công, nơi kết nối các nghệ nhân bản địa với thế hệ trẻ, biến di sản thành chất liệu sáng tạo đầy sức sống trong bối cảnh hiện đại.

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Tối 26/11 tại Trung tâm Văn hoá - Triển lãm tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan hát Then, đàn Tính tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất năm 2025 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Ngày 17/11, tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng tỉnh tổ chức khai mạc không gian trưng bày, trải nghiệm nhà dài truyền thống và tái hiện “Lễ lên nhà mới” của người Ê Đê. Đây là một trong những nét đặc sặc trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk.

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Chiều 15/11, tại Công viên bờ biển Nha Trang (cạnh Tháp Trầm Hương – Quảng trường 2/4), phường Nha Trang, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa khai mạc trưng bày triển lãm 250 bức ảnh với chủ đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”. Đây là hoạt động góp phần gìn giữ, tôn vinh, lan tỏa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của các dân tộc Việt Nam.

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.