Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4: Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tại Quảng Ngãi

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4: Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tại Quảng Ngãi

Chiều 20/4, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách năm 2022. Hoạt động hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4.

Gần 100 cán bộ, viên chức đang công tác trong lĩnh vực thư viện của 9 huyện, thị xã, thành phố gồm Tư Nghĩa, Bình Sơn, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn Tịnh, thị xã Đức Phổ, Minh Long và Nghĩa Hành tham gia Hội thi. Các đội đã chọn giới thiệu cuốn sách hay về các Anh hùng, Liệt sỹ, những nhân vật lịch sử, người có công với cách mạng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp -Vị tướng của hòa bình, 10 cô gái Ngã 3 Đồng Lộc, Sống mãi trên quê hương anh hùng…

Hội thi nhằm triển khai sâu rộng phong trào đọc sách, quảng bá sách, lưu giữ sách trong nhân dân; tạo điều kiện để cán bộ, viên chức ngành Thư viện trong tỉnh học hỏi, giao lưu, góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục thẩm mỹ và kỹ năng lựa chọn sách để phục vụ chuyên môn và giới thiệu sách đến với bạn đọc. Những huyện miền núi chọn giới thiệu sách viết về văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số như Văn hóa cổ truyền dân tộc Cor hay Sách ảnh người HrêViệt Nam.

Các phần thi diễn được đầu tư cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện, giúp người xem cảm nhận việc đọc sách có nhiều điều thú vị, hấp dẫn và lôi cuốn.

Trước đó, các đoàn đã hoàn thành phần thi xếp sách nghệ thuật. Qua tư duy sáng tạo, khéo léo, đầy tính nghệ thuật, các cán bộ thư viện đã hoàn thành nhiều mô hình sách hay, độc đáo, ấn tượng với nhiều chủ đề phong phú.

Hội thi xếp sách nghệ thuật và tuyên truyền giới thiệu sách tỉnh Quảng Ngãi năm 2022 hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam nhằm xây dựng và phát triển phong trào đọc sách trở thành nếp sống trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hội thi tạo cơ hội trao đổi để cán bộ, viên chức ngành thư viện có thêm kiến thức, kinh nghiệm phục vụ tốt hơn hoạt động thư viện.

Đinh Hương

(TTXVN)
Dân tộc Co

Tên tự gọi: Cor, Col.

Tên gọi khác: Cua, Trầu.

Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.

Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.

Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.

Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.

: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.

Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.

Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...

Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.

Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...

Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.

Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.

Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.

Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Co
Dân tộc Hrê

Tên tự gọi: Hrê, trước kia thường gắn với tên sông sở tại như: "người Krê" - sông Krế ở Sơn Hà; "người Hrê" - sông Hrê ở Ba Tơ; "người nước Ðinh" - sông Ðinh ở An Lão)...

Tên gọi khác: Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Mọi Sơn Phòng, Mọi Ðá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.

Dân số: 127.420 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (Ngữ hệ Nam Á). Từ thời kỳ trước năm 1975, chữ viết ra đời bằng cách dùng hệ thống kí tự La-tinh để phiên âm, được sử dụng rộng rãi, nhưng nay đã bị mai một.

Lịch sử: Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.

Hoạt động sản xuất: Phần lớn người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ yếu nhờ rẫy. Lối canh tác rẫy phát - đốt - chọc trỉa, với bộ nông cụ đơn giản gồm rìu, dao quắm, gậy chọc lỗ, cái nạo cỏ, khi thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Cách thức làm ruộng tương tự như ở người Việt vùng nam Trung bộ (dùng cày, bừa có đôi trâu kéo, biết gieo mạ và cấy, dùng liềm và vằng để gặt...) nhưng còn thấy dấu vết của tập quán trồng lúa rẫy.

Từng gia đình thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công chỉ có đan lát và dệt vải nhưng nay cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn ở vài nơi. Việc giao lưu hàng hoá thường theo hình thức trao đổi vật trực tiếp. Hái lượm, săn bắt và đánh cá cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho mỗi gia đình.

Ăn: Người Hrê thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ tết có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những thứ kiếm được và muối ớt, khi có cúng bái thì thịt con vật hiến sinh được dùng làm đồ nhắm và cải thiện bữa ăn. Thức ăn đựng trong các vật làm bằng mo cau. ¡n bốc. Thức uống có nước lã, nước chè xanh, rượu cần (nay rượu cất khá thông dụng). Tập quán hút thuốc lá và ăn trầu cau phổ biến.

: Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Nhà sàn có cửa ra vào ở mỗi đầu và một mặt bên, có 2 hàng cột tạo thành 2 vì cột, trên đỉnh đốc có hình cặp sừng thú, vách nghiêng phía trên ra ngoài. Mặt sàn thường hơi cao một chút về bên không đặt bếp đun, nhằm tạo thế nằm thoải mái: chân thấp hơn đầu. Nhà ở trong làng đều dựng ngang triền đất dốc, tránh để đòn nóc chĩa hướng chắn ngang dòng chảy của sông suối.

Ngày nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Việt: tuy nhiều phụ nữ còn dùng váy nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc không tạo thành hai tầng như xưa.

Mặc: Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, chít khăn, khi dự lễ hội hoặc đi xa thì mặc áo; đàn bà có váy ống mặc kiểu hai tầng. Có áo, khăn trùm đầu. Những vòng đeo trang sức làm bằng đồng bạc, nhôm và chuỗi cườm; riêng nam giới không trang sức ở tai.

Phương tiện vận chuyển: Người Hrê quen dùng gùi sau lưng, mỗi quai gùi quàng giữ vào một vai: chở thóc gạo thì dùng gùi đan dày, chở củi, sắn thì có gùi mắt thưa, đàn ông đi rừng hay đi trận có riêng loại gùi như chiếc túi hoặc gùi ba ngăn. Ngoài ra, người Hrê còn gánh lúa khi gặt và đội đồ vật trên đầu.

Quan hệ xã hội: Già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Trước kia sự phân hoá xã hội đã khá sâu sắc, chế độ tôi tớ - đặc biệt là đi ở vì nợ - có phần khắc nghiệt hơn nhiều tộc Thượng khác, hiện tượng tranh chiếm và tập trung ruộng đất (theo đó là sự xác lập quyền thế của một số cá nhân) đã tương đối phát triển. Tuy vậy, quan hệ trong làng vẫn thể hiện tinh thần cộng đồng công xã.

Cưới xin: Cư trú phía chồng hay phía vợ là tuỳ thoả thuận giữa hai gia đình, phần đông sẽ dựng nhà ở riêng sau khi có con đầu lòng. Ðám cưới có nghi thức dâu và rể kết gắn với nhau thông qua việc trao bát rượu, miếng trầu cho nhau hay quàng chung một vòng dây sợi... Vợ goá có thể lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung mẹ hoặc cha đều không được lấy nhau.

Sinh đẻ: Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có là đỡ hộ sinh, cắt rốn bằng dao, cái rau được gói trong mo cau rồi đem bỏ trong rừng hoặc chôn cạnh nhà. Sản phụ nghỉ ngơi vài chục ngày, kiêng ăn cá niêng, trứng, chuối, thịt gà trắng... Ðứa bé đầy tháng mới làm lễ đặt tên.

Ma chay: Quan tài độc mộc có dáng hao hao chiếc thuyền. Người chết được quàn tại nhà từ 1 đến 3 ngày rồi chôn trong bãi mộ của làng. Mộ đắp thành gò dài trên dựng nhà mồ có nóc mái làm như nhà ở. Tang gia "chia của" tựa hồ cho người chết đi ở riêng: từ đồ ăn thức uống cho đến vật dụng trong nhà, từ trang phục, công cụ lao động... đều có ở mộ.

Thờ cúng: Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo trỉa và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn... đều cúng bái. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an, tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình.

Lễ tết: Lễ hội có đâm trâu là lớn nhất, dù đó là lễ của làng hay một nhà cũng đông vui. Hàng năm, người Hrê ăn tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo tết Nguyên đán. Ngày tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khoẻ cho mọi người trong nhà; có bánh gói bằng gạo nếp, rượu, thịt... Dịp tết làng làm lễ cúng tập thể cầu mong mưa thuận, đủ nước.

Lịch: Cách tính tương tự âm lịch của người Việt. Trong tháng, phân biệt ngày tốt, ngày xấu và chọn ra những ngày nên làm việc này, không nên làm việc kia.

Văn nghệ: Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Hrê

Có thể bạn quan tâm

Tưng bừng giải đua ghe Ngo của đồng bào Khmer Vĩnh Long

Tưng bừng giải đua ghe Ngo của đồng bào Khmer Vĩnh Long

Chiều 3/11, tại sông Long Bình (phường Long Đức và Hòa Thuận), Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long tranh cúp 620 Châu Thới năm 2025 được khai mạc. Đây là hoạt động trọng điểm chào mừng Lễ hội Ok Om Bok năm 2025, một trong số lễ hội lớn của đồng bào Khmer Nam Bộ.

Hội chợ mùa Thu 2025: Điểm hẹn sắc màu dân tộc

Hội chợ mùa Thu 2025: Điểm hẹn sắc màu dân tộc

Hội chợ mùa Thu 2025 tại Trung tâm triển lãm Quốc gia (Đông Anh, Hà Nội) không chỉ là sự kiện xúc tiến thương mại quy mô quốc gia mà còn là nơi hội tụ và quảng bá những giá trị văn hóa, những sắc màu dân tộc Việt Nam. Tại đây, có thể bắt gặp rất nhiều đồng bào các dân tộc với những nét văn hoá đặc trưng, cùng các sản vật địa phương phong phú.

Văn hóa - nguồn lực nội sinh quan trọng vùng đồng bào DTTS

Văn hóa - nguồn lực nội sinh quan trọng vùng đồng bào DTTS

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chỉ đạo việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong suốt quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước với phương châm "Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất, đa dạng". Các chủ trương, chính sách đã ban hành, thực hiện thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội.

Công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm mão, mặt nạ của đồng bào Khmer

Công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm mão, mặt nạ của đồng bào Khmer

Ngày 1/11, tại lễ kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11) gắn với Tuần lễ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chào mừng Lễ hội Ok Om Bok năm 2025 diễn ra tại phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh công bố quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc đưa nghề thủ công mỹ nghệ “Nghề làm mão (mũ), mặt nạ của đồng bào Khmer” vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

Giữa miền quan họ mượt mà câu hát, tiếng đàn tính của người Tày, Nùng vang lên như một nét riêng trong bức tranh văn hóa Kinh Bắc. Mỗi làn điệu Then cất lên là một nhịp nối giữa quá khứ và hiện tại, mang theo tình yêu quê hương và khát vọng gìn giữ cội nguồn. Trong nhịp sống hiện đại, những người con nơi đây vẫn lặng lẽ “giữ lửa”, để làn điệu Then tiếp tục ngân vang giữa miền di sản thắm tình người quan họ.

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Sáng 21/10, đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại Khánh Hòa và Lâm Đồng cùng du khách thập phương nô nức tham dự Lễ hội Katê năm 2025 - một sự kiện văn hóa truyền thống quan trọng nhất trong năm của người Chăm.

Nhiều hoạt động chào mừng Lễ hội Katê

Nhiều hoạt động chào mừng Lễ hội Katê

Nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào Chăm, tỉnh Khánh Hòa tổ chức nhiều hoạt động đặc sắc chào mừng Lễ hội Katê năm 2025 diễn ra trong 3 ngày (từ 20 - 22/10). Sự kiện không chỉ là dịp để cộng đồng người Chăm theo đạo Bàlamôn thể hiện lòng biết ơn các vị thần linh và tổ tiên, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi mà còn là cơ hội quảng bá văn hóa, du lịch địa phương.

Đánh thức tiềm năng du lịch đập thủy lợi Phước Hòa

Đánh thức tiềm năng du lịch đập thủy lợi Phước Hòa

Không chỉ là nơi điều tiết, cung cấp nước ngọt cho cả vùng rộng lớn, đập thủy lợi Phước Hoà (xã Nha Bích, tỉnh Đồng Nai) với diện tích hơn 2.000 ha được đánh giá có tiềm năng lớn để phát triển du lịch. Tuy nhiên, đến nay khu vực này mới ở dạng tiềm năng, cần được "đánh thức" để phát triển xứng tầm.

Tết Trung thu nơi phên giậu của Tổ quốc

Tết Trung thu nơi phên giậu của Tổ quốc

Những ngày đầu tháng 10, khi không khí Tết Trung thu lan tỏa khắp nơi, tại các xã biên giới của tỉnh Gia Lai, tiếng trống múa lân, lời ca tiếng hát của các em nhỏ lại rộn ràng vang lên giữa núi rừng.

Đánh thức giá trị di sản bằng công nghệ

Đánh thức giá trị di sản bằng công nghệ

Tây Ninh được biết đến là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa đồng thời sở hữu kho tàng di sản phong phú với 223 di tích được xếp hạng từ cấp quốc gia đặc biệt đến cấp tỉnh, cùng 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và một di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Những giá trị quý báu ấy đang từng ngày được “đánh thức” và lan tỏa mạnh mẽ nhờ ứng dụng công nghệ số, mở ra hướng đi mới trong bảo tồn, phát huy di sản, đồng thời hòa nhịp cùng dòng chảy phát triển trong kỷ nguyên số.

Phát triển du lịch xanh gắn với văn hóa bản địa

Phát triển du lịch xanh gắn với văn hóa bản địa

Sau sáp nhập, tỉnh Vĩnh Long trở thành vùng đất giàu tiềm năng về du lịch nhờ vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên phong phú và bản sắc văn hóa đặc trưng. Địa phương đang từng bước khẳng định vị thế là trung tâm du lịch của vùng Tây Nam Bộ.

Lâm Đồng chú trọng dạy tiếng Chăm, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa

Lâm Đồng chú trọng dạy tiếng Chăm, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa

Tại tỉnh Lâm Đồng, nơi có đông đồng bào Chăm sinh sống, công tác dạy tiếng Chăm trong trường học vùng dân tộc thiểu số đang được chú trọng triển khai. Đây không chỉ là bước đi quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Chăm, mà còn góp phần hỗ trợ học sinh nâng cao kỹ năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong học tiếng Việt và tiếp cận kiến thức mới một cách hiệu quả hơn.

Phát huy giá trị Lễ hội Thành Tuyên

Phát huy giá trị Lễ hội Thành Tuyên

Sức ảnh hưởng của Lễ hội Thành Tuyên ngày càng lớn và có sự lan tỏa rộng rãi, thu hút hàng nghìn người tham gia mỗi năm. Bên cạnh thành công đó, Lễ hội Thành Tuyên 2025 cũng ghi nhận một số ý kiến trái chiều, phản án liên quan đến các hoạt động rước diễu.

Sôi nổi Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số

Sôi nổi Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số

Ngày 25/9, tại Nhà thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh Thái Nguyên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên năm 2025 với hai môn thi đấu: Tung còn và Bắn nỏ.

Triển lãm hơn 230 hình ảnh, tư liệu quý về Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk

Triển lãm hơn 230 hình ảnh, tư liệu quý về Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk

Ngày 25/9, chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ I và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tại Bảo tàng tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh khai mạc Triển lãm chuyên đề “Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk - Những chặng đường lịch sử”.

Đồng bào Khmer đón lễ Sene Dolta 2025 trong không khí vui tươi và đầm ấm

Đồng bào Khmer đón lễ Sene Dolta 2025 trong không khí vui tươi và đầm ấm

Từ ngày 21 đến 23/9, đồng bào Khmer Nam Bộ tổ chức lễ Sene Dolta (còn gọi là lễ Sen Dolta, hay Sen Đôn-ta) một trong những lễ truyền thống quan trọng trong năm. Với nghi thức tôn giáo trang nghiêm và phong tục đặc sắc, lễ hội thể hiện đậm nét đời sống tinh thần, tín ngưỡng và truyền thống hiếu đạo của người Khmer, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Ấm áp lễ Sene Dolta 2025 của đồng bào Khmer tại TP Hồ Chí Minh

Ấm áp lễ Sene Dolta 2025 của đồng bào Khmer tại TP Hồ Chí Minh

Những ngày cuối tháng 9, cộng đồng người Khmer tại TP Hồ Chí Minh lại hòa mình vào không khí ấm cúng của lễ Sene Dolta 2025. Sene Dolta là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm, không chỉ thể hiện lòng thành kính đối với tổ tiên mà còn là dịp để những người con xa quê tìm về chốn thiền môn, thắt chặt tình đoàn kết và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Đồng bào Khmer hướng về cội nguồn, nhớ ơn tổ tiên

Đồng bào Khmer hướng về cội nguồn, nhớ ơn tổ tiên

Trong ngày 21-22/9, đông đảo đồng bào Khmer tại tỉnh Đồng Nai và nhiều địa phương khác đã về Chùa Sóc Lớn, xã Lộc Hưng, tham dự lễ Sene Dolta - lễ hội mang ý nghĩa tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã khuất.

Đặc sắc đêm lễ hội đường phố ở Điện Biên

Đặc sắc đêm lễ hội đường phố ở Điện Biên

Nằm trong chuỗi hoạt động của Festival Tinh hoa Tây Bắc - Điện Biên năm 2025, tối 20/9, đã diễn ra lễ hội đường phố nhằm mang đến một không gian nghệ thuật nhiều màu sắc, với các màn trình diễn dân ca, dân vũ, trang phục truyền thống và các kỹ nghệ dân gian. Chương trình được thiết kế là sân khấu mở, nơi du khách và người dân có thể giao lưu, trải nghiệm và cảm nhận chiều sâu văn hóa vùng cao.

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Ngày 20/9, tại sân đua bò xã Tri Tôn (Khu Liên hợp Thể thao - Du lịch Tà Pạ - Soài Chek), Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh An Giang phối hợp với Báo và Phát thanh - Truyền hình An Giang, UBND xã Tri Tôn tổ chức Hội đua bò Bảy Núi tranh cúp Truyền hình An Giang lần thứ 30, năm 2025. Đây là sự kiện văn hóa – thể thao đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer vùng Bảy Núi tỉnh An Giang vào dịp lễ Sen Đôn Ta (lễ cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.