Nông sản Việt khi nào hết “phập phồng” đầu ra?

Nông dân Sóc Trăng thu hoạch dưa hấu. Ảnh: Chanh Đa - TTXVN
Nông dân Sóc Trăng thu hoạch dưa hấu. Ảnh: Chanh Đa - TTXVN

Sản xuất, xuất khẩu nông sản những năm gần đây liên tục tạo nên những kỷ lục mới, đặc biệt năm 2021 trong khi nhiều ngành gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19 thì sản xuất, xuất khẩu nông sản càng khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Tuy nhiên, những con số xuất khẩu đó chưa đồng nghĩa với việc phát triển thị trường bền vững, nông sản Việt vẫn loay hoay với câu hỏi: Khi nào hết “phập phồng” đầu ra?

Nông sản Việt khi nào hết “phập phồng” đầu ra? ảnh 1 Nông dân Sóc Trăng thu hoạch dưa hấu. Ảnh: Chanh Đa - TTXVN

Từ “điểm nghẽn” Trung Quốc

Ngay từ những ngày đầu năm 2022, hàng nghìn xe container chở nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc (chủ yếu là thanh long) bị ách tắc, thiệt hại cho cả nông dân lẫn doanh nghiệp chưa thể thống kê được. Không dừng lại ở đó, nhiều loại nông sản khác có sản lượng lớn như mít, chuối, xoài, bưởi... cũng đứng trước nguy cơ khó tiêu thụ.

Ông Nguyễn Khắc Huy, Giám đốc Công ty Hoàng Phát Fruit chia sẻ, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của nhiều loại trái cây của Việt Nam như thanh long, mít, dưa hấu… nhưng tâm lý chung của người dân Việt Nam vẫn coi đây là thị trường dễ tính nên ít chú trọng về tiêu chuẩn chất lượng. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo Việt Nam về việc nên xuất khẩu thanh long và nông sản nói chung theo đường chính ngạch cũng như đáp ứng các yêu cầu về mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, truy xuất nguồn gốc…

Theo ông Nguyễn Khắc Huy, dù có phát triển thêm nhiều thị trường khác thì Trung Quốc vẫn là thị trường có quy mô lớn nhất, phù hợp với nhiều loại nông sản, trái cây của Việt Nam. Do vậy, người dân và doanh nghiệp cần đáp ứng yêu cầu mà thị trường đặt ra chứ không thể yêu cầu ngược lại phía bạn phải mở cửa vô điều kiện. Ngành nông nghiệp và các địa phương cần tuyên truyền, cập nhật thường xuyên cho người dân, doanh nghiệp thông tin về các tiêu chuẩn thị trường Trung Quốc và khuyến cáo tuân thủ mới có thể giữ được thị trường lâu dài.

Trong khi đó, ông Mai Xuân Thìn, Giám đốc Công ty Rồng Đỏ phân tích, xuất khẩu trái cây nói chung và thanh long nói riêng hiện nay đang gặp hai vấn đề là mối nguy sinh học COVID-19 và thiếu container rỗng cũng như chi phí vận chuyển. Đối với chính sách kiểm soát COVID-19, cần sớm kích hoạt thực hiện “Thực hành kiểm soát mối nguy sinh học, thực hiện 5K, bao tay, test nhanh lực lượng lao động trong chuỗi giá trị, test nhanh thành phẩm, bán thành phẩm với mục tiêu là không phát hiện virus trên thành phẩm hay vỏ thùng hàng". Đây là hành động khẩn thể hiện thiện chí và cách kiểm soát nghiêm túc của nông dân, nhà đóng gói, vận tải và chính quyền Việt Nam với các đối tác nhập khẩu.

Về việc vận chuyển, Việt Nam cần chủ động kết nối với hãng tàu, xây dựng kế hoạch mời gọi đội tàu lạnh, đông lạnh giống như những kho lạnh di động vừa phục vụ xuất khẩu vừa phục vụ thị trường nội địa khi cần thiết bởi không chỉ thanh long mà hầu hết trái cây, rau quả và thủy sản xuất khẩu đều dùng tàu lạnh mới đảm bảo chất lượng.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, trong quý I/2022, dự báo sản lượng trái cây khu vực phía Nam đạt gần 1,4 triệu tấn, ngoài thanh long còn có lượng lớn các loại chuối, xoài, mít, bưởi có sản lượng lớn cần tiêu thụ. Thị trường chính vẫn là Trung Quốc, tuy nhiên, với diễn biến hiện nay có khả năng việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn.

Theo đó, dịch bệnh COVID–19 vẫn diễn biến phức tạp ảnh hưởng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt, yêu cầu chất lượng, truy xuất nguồn gốc của các thị trường xuất khẩu ngày càng cao, đặc biệt thị trường Trung Quốc có thể tăng biện pháp kiểm dịch bệnh, làm chậm tiến độ xuất khẩu, gây ùn ứ tại cửa khẩu. Trong khi đó năng lực chế biến trái cây trong nước còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu trái tươi, nếu ách tắc sẽ rất khó tiêu thụ hết.

Đến thay đổi tư duy thị trường

Các chuyên gia cho rằng, sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản phải nhanh chóng thích ứng với các quy luật chung về cung – cầu cũng như tiêu chuẩn chất lượng mới có thể khai thác hiệu quả các thị trường một cách bền vững.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, khi gặp ách tắc sang Trung Quốc, phần lớn nông sản chỉ có thể quay đầu về tiêu thụ nội địa chứ không thể chuyển hướng tiếp tục sang các thị trường khác do không đáp ứng được tiêu chuẩn. Điều này phản ánh thực trạng nông dân đổ xô trồng theo số lượng và chưa chú trọng đến các tiêu chuẩn mang tính phổ biến của thị trường toàn cầu và công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn hạn chế.

Trong khi đó, ngay cả Trung Quốc, thị trường từng được xem là dễ tính nhất cũng liên tục nâng cao các tiêu chuẩn và kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa nhập khẩu bằng việc siết chặt nhập khẩu biên mậu và chỉ chấp nhận sản phẩm có đăng ký mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói… nhưng vẫn còn một bộ phận nông dân không cập nhật kịp thông tin hoặc giữ tư duy có gì bán nấy.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ việc canh tác nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Thực tế các hộ tham gia hợp tác xã sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp đều được doanh nghiệp phổ biến các tiêu chuẩn mà khách hàng, thị trường yêu cầu, tổ chức sản xuất theo quy trình và được bao tiêu đầu ra. Nhờ chất lượng ổn định nên ngay cả khi thị trường có biến động, các vùng sản xuất có liên kết cũng không bị ảnh hưởng quá nhiều. Việc tham gia các hợp tác xã hay các chuỗi liên kết cũng hạn chế tình trạng sản xuất vượt quy hoạch dẫn đến dư thừa sản lượng, phải giải cứu và bán đổ bán tháo.

Ở góc độ nhà phân phối, bà Trần Kim Nga, Giám đốc đối ngoại MM Mega Market cho rằng, giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản Việt Nam còn bị động, nhiều loại nông sản cung vượt cầu dẫn đến rớt giá. Mặt khác, khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thực chất rất lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả.

Theo bà Nga, tâm lý của nhiều nông dân và cả doanh nghiệp thương mại vẫn còn phân biệt sản phẩm loại 1, chất lượng cao để xuất khẩu còn sản phẩm loại 2, loại 3 dành cho thị trường trong nước. Trong khi đó, mức sống, thu nhập của người dân trong nước ngày càng được cải thiện, nhu cầu sử dụng các sản phẩm chất lượng cao ngày càng tăng, thậm chí người tiêu dùng trong nước còn chấp nhận chi trả giá cao cho các sản phẩm nhập khẩu vì có chất lượng tốt. Vậy thì không có lý do gì để nông dân hay doanh nghiệp Việt Nam không chăm chút cho sản phẩm tiêu thụ trong nước mà chỉ khi gặp khó mới kêu gọi “giải cứu”.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phân tích, nông sản và các loại trái cây của Việt Nam đang có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường thế giới thông qua hàng loạt hiệp định thương mại tự do. Song cũng đối mặt với rất nhiều thách thức từ các quy định về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật ngày càng chặt chẽ; những rủi ro thiên tai và dịch bệnh…

Để tiến xa một cách bền vững, cả nông dân và doanh nghiệp phải nâng cao năng lực và nhận thức trong việc nắm bắt các quy định về kỹ thuật và yêu cầu về kiểm dịch động thực vật của thị trường. Thay đổi cách tiếp cận về an toàn thực phẩm từ việc kiểm tra an toàn sản phẩm cuối cùng sang giám sát tại mọi công đoạn trong toàn bộ chuỗi sản xuất thông qua việc thiết lập cơ chế hợp tác giữa cơ quan quản lý - doanh nghiệp - người sản xuất.

“Những người tham gia vào chuỗi giá trị nông nghiệp cần nhanh chóng thay đổi nhận thức và quan niệm từ số lượng sang chất lượng, chú trọng tính an toàn của sản phẩm. Cụ thể, cần lập kế hoạch tổ chức sản xuất và chế biến xuất khẩu dựa trên đánh giá và dự báo nhu cầu thị trường. Không phải gia tăng sản lượng mà tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm đặc sản, chỉ đẫn địa lý, sản phẩm hữu cơ mới là con đường để khẳng định giá trị và thương hiệu của nông sản Việt Nam” - ông Hòa khuyến nghị.

Xuân Anh

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.